02213 863 641 /0978240366 | hungyen@gso.gov.vn
Tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Hưng Yên tháng ba và quý I năm 2025
  •   04/04/2025 15:50

BÁO CÁOTÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI TỈNH HƯ­NG YÊNTHÁNG BA VÀ QUÝ I NĂM 2025 Quý I năm 2025, tình hình thế giới diễn biến phức tạp. Thế giới tiếp tục đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức; tình trạng bất ổn an ninh, xung đột vũ trang, chiến tranh tại một số quốc gia, khu vực kéo dài; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, cạnh tranh kinh tế, thương mại, công nghệ ngày càng gay gắt; suy thoái, lạm phát, bất ổn kinh tế, tài chính hiện hữu. Đặc biệt, chính sách kinh tế mới của chính quyền Tổng thống Mỹ - D.Trump làm gia tăng chủ nghĩa dân tộc, có thể tác động lớn đến quá trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, dòng chảy thương mại, đầu tư và tăng trưởng kinh tế, thậm chí có thể dẫn đến cuộc chiến thương mại, chuyển hướng dòng đầu tư quốc tế. Từ đó, gây thách thức cho các thị trường mới nổi và nền kinh tế đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Trong nước, nền kinh tế vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức, sức ép khơi thông nguồn vốn tín dụng, giá nguyên nhiên vật liệu tăng; chi phí vận tải tăng, nhất là vận tải biển; sản xuất kinh doanh tiếp tục đối mặt với nhiều thách thức, các thị trường xuất nhập khẩu lớn, truyền thống của Việt Nam bị thu hẹp hoặc có sự cạnh tranh gay gắt hơn, độ mở của nền kinh tế nước ta khá lớn,... đã ảnh hưởng không nhỏ đến phát triển kinh tế trong nước. Đối với tỉnh Hưng Yên, lãnh đạo Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh đã quán triệt kịp thời và tổ chức triển khai có hiệu quả các văn bản của cấp trên. Đồng thời, tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo các cấp, các ngành thực hiện những nhiệm vụ và giải pháp cụ thể trong Nghị quyết về phát triển kinh tế - xã hội năm 2025, trọng tâm là thúc đẩy chuyển đổi số mạnh mẽ; liên tục cải thiện thể chế, môi trường đầu tư, kinh doanh và năng lực cạnh tranh; tăng cường vai trò dẫn dắt của đầu tư công; thực hiện sắp xếp đơn vị hành chính, tinh gọn bộ máy của hệ thống chính trị. Ðồng thời, tạo lập hệ sinh thái phát triển công nghiệp sạch, công nghệ cao với chính sách thu hút đầu tư mới có chọn lọc, coi trọng quy mô, trình độ công nghệ hiện đại, bảo vệ môi trường. Tỉnh đẩy nhanh tốc độ đô thị hóa, hình thành các đô thị lớn, thông minh, đô thị sinh thái gắn với phát triển thương mại, dịch vụ hiện đại; tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp, nhà đầu tư tiếp cận bình đẳng thông tin, cơ hội kinh doanh, đầu tư. Từ đó, nhiều doanh nghiệp đã mở rộng sản xuất, nhiều sản phẩm sản xuất tăng trưởng so với cùng kỳ và kỳ trước, doanh nghiệp ký nhận được đơn hàng mới.         I. TÌNH HÌNH KINH TẾ         1. Tăng trưởng kinh tế  Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh (GRDP) quý I năm 2025 ước tăng 8,96% so với cùng kỳ năm 2024 (cao hơn so với mức tăng 6,07% của quý I năm 2024), trong đó: khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,06% (đóng góp 0,18 điểm phần trăm vào tăng trưởng kinh tế chung của cả tỉnh); công nghiệp và xây dựng tăng 9,57% (đóng góp 5,82 điểm phần trăm vào tăng trưởng kinh tế chung của cả tỉnh); khu vực thương mại, dịch vụ tăng 9,97% (đóng góp 2,39 điểm phần trăm vào tăng trưởng kinh tế chung của cả tỉnh); thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm tăng 8,71% (đóng góp 0,58 điểm phần trăm vào tăng trưởng kinh tế chung của cả tỉnh). Như vậy, tăng trưởng kinh tế quý I của tỉnh đã vượt so với kịch bản tăng trưởng kinh tế 2 con số mà tỉnh đề ra (theo kịch bản tăng trưởng 2 con số quý I tăng 8,52%). So với các tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng thì tốc độ tăng trưởng GRDP quý I năm 2025 của tỉnh Hưng Yên xếp thứ 9/11 tỉnh, thành phố; so với cả nước thì xếp thứ 17/63 tỉnh, thành phố. Tốc độ tăng trưởng GRDP quý I năm 2025 của một số tỉnh trong vùng đồng bằng sông Hồng như sau: Hà Nam tăng 10,54%; Hải Phòng tăng 11,07%; Hải Dương tăng 10,87%; Quảng Ninh tăng 10,91%; Nam Định tăng 11,86%; Thái Bình tăng 9,04%; Vĩnh Phúc tăng 8,75%; Bắc Ninh tăng 9,05%;...   Sản xuất nông nghiệp và thủy sản trên địa bàn tỉnh tương đối ổn định, không có dịch bệnh xảy ra đối với cây trồng và vật nuôi. Năng suất của hầu hết các loại cây trồng đều đạt khá. Diện tích gieo trồng cây vụ đông tiếp tục có xu hướng giảm nhưng thấp hơn so với những năm trước đây, chỉ giảm 0,67% (diện tích gieo trồng vụ đông năm 2024 giảm 0,83%; vụ đông năm 2023 giảm 6,39%). Cùng với đó, sản lượng các loại thịt hơi xuất chuồng đạt khá nên tăng trưởng khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản quý I năm 2025 của tỉnh ước tăng 2,06%, trong đó đóng góp chủ yếu từ ngành chăn nuôi.         Sản xuất công nghiệp và xây dựng trong quý I có nhiều thuận lợi hơn so với cùng kỳ năm trước, ước tăng 9,57% (quý I năm 2024 chỉ tăng 7,86%). Các doanh nghiệp công nghiệp tiếp tục duy trì tăng trưởng khá, một số ngành là thế mạnh của tỉnh có mức tăng trưởng tốt và đóng góp lớn vào tăng trưởng chung của tỉnh như: sản xuất trang phục (tăng 10,18%); sản xuất xe ô tô và xe có động cơ khác (tăng 29,75%) - đây là ngành đóng góp lớn nhất vào tăng trưởng của khu vực công nghiệp trong quý I năm 2025; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan (tăng 25,25%); sản xuất máy móc, thiết bị (điều hòa, tủ lạnh, máy giặt,…) tăng 28,24%; sản xuất phương tiện vận tải khác (tăng 17,01%); sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 13,53%;…Tuy nhiên, một số ngành chiếm tỷ trọng lớn do khó khăn về đầu ra nên có tăng trưởng không cao hoặc giảm so với cùng kỳ năm trước như: sản xuất chế biến thực phẩm (giảm 5,50%); sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (tăng 6,11%); sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học (tăng 6,59%); sản xuất thiết bị điện (giảm 0,66%);… Hoạt động xây dựng tiếp tục duy trì mức tăng trưởng khá (tăng 12,55%), chủ yếu nhờ hoạt động xây dựng các công trình kỹ thuật dân dụng sử dụng vốn ngân sách nhà nước như các công trình trọng điểm xây dựng đường giao thông đã có tiến độ thi công và giá trị thực hiện lớn trong quý. Khu vực dịch vụ có tăng trưởng khá (tăng 9,97%), cao hơn nhiều so với quý I năm 2024 (quý I năm 2024, tăng trưởng khu vực dịch vụ đạt 1,91%). Nguyên nhân là do dịp Tết Nguyên đán năm nay thời tiết tương đối thuận lợi cho việc du xuân nên nhu cầu đi lại, ăn uống của người dân tăng cao đã khiến doanh thu các ngành dịch vụ đạt khá. Cùng với đó, thị trường bất động sản sôi động trở lại, một số đơn vị kinh doanh ghi nhận tăng khá so với cùng kỳ năm trước. Một số ngành dịch vụ chiếm tỷ trọng lớn trong khu vực dịch vụ có mức tăng trưởng tốt, đóng góp lớn vào tăng trưởng khu vực dịch vụ như: bán buôn, bán lẻ tăng 8,68% so với cùng kỳ năm trước; ngành tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 9,06%; hoạt động kinh doanh bất động sản tăng 12,42%; giáo dục và đào tạo tăng 15,81%; dịch vụ lưu trú và ăn uống tăng 18,10%;... 2. Sản xuất nông nghiệp, thuỷ sản a) Trồng trọt Cây hằng năm Sản xuất vụ đông: Tổng diện tích gieo trồng cây hằng năm vụ đông năm 2025 toàn tỉnh đạt 6.750 ha, giảm 0,67%, tương ứng giảm 46 ha so với cùng kỳ năm 2024. Diện tích gieo trồng và sản lượng thu hoạch một số loại cây hằng năm vụ đông năm nay như sau: ngô 1.307 ha, tăng 0,99% (tăng 13 ha), sản lượng ngô 7.637 tấn, tăng 2,64% (tăng 197 tấn); khoai lang 148 ha, tăng 12,06% (tăng 16 ha), sản lượng 2.202 tấn, tăng 13,98% (tăng 270 tấn); đậu tương 147 ha, giảm 52 ha (giảm 26,17%), sản lượng 243 tấn, giảm 27,81% (giảm 94 ha); lạc 38 ha, giảm 2,13% (giảm 1 ha), sản lượng 118 tấn, giảm 3,55% (giảm 4 ha); rau các loại 4.091 ha, tăng 0,58% (tăng 24 ha), sản lượng 97.501 tấn, giảm 0,11% (giảm 106 tấn); đậu/đỗ các loại 70 ha, tăng 11,0% (tăng 7 ha), sản lượng 132 tấn, tăng 9,80% (tăng 12 ha);... Sản xuất vụ xuân: Theo kế hoạch, diện tích gieo trồng lúa vụ đông xuân năm nay của toàn tỉnh là 23.600 ha. Đến ngày 25/3/2025, toàn tỉnh đã hoàn thành gieo cấy lúa xuân. Diện tích gieo cấy lúa xuân ước đạt 23.766 ha, giảm 866 ha, tương ứng giảm 3,52% so với cùng kỳ năm 2024. Diện tích chăm sóc lúa lần 2 đạt 23.655 ha. Ngoài việc hoàn thành diện tích gieo cấy và chăm sóc lúa, nông dân các địa phương đã khẩn trương gieo trồng các loại rau màu vụ xuân. Đến ngày 25/3/2025, toàn tỉnh đã gieo trồng được 5.111 ha rau màu vụ xuân, trong đó: ngô 895 ha; bầu, bí các loại 64 ha; dưa các loại 157 ha; lạc, đậu tương 359 ha; dược liệu 884 ha; hoa cây cảnh 757 ha; rau các loại 1.995 ha. Diện tích thu hoạch rau màu vụ xuân đạt 431 ha. Cây lâu năm Tình hình sản xuất cây lâu năm của Hưng Yên vẫn duy trì ổn định. Tổng diện tích hiện có các loại cây lâu năm ước đạt 15.834 ha, giảm 0,43%, tương ứng giảm 68 ha so với cùng kỳ năm trước. Trong tổng số diện tích cây lâu năm của tỉnh thì diện tích cây ăn quả chiếm chủ yếu - chiếm khoảng 93,06%. Ước tính trong quý I năm 2025, toàn tỉnh thu hoạch được: chuối 16.100 tấn, giảm 6,40% so với cùng kỳ năm trước; cam 21.245 tấn, tăng 1,70%; táo 4.530 tấn, tăng 4,86%; ổi 2.234 tấn, tăng 4,15%;... Thời điểm này, trên các loại cây ăn quả như nhãn, vải và nhóm cây có múi đang ở thời kỳ phân hóa hoa, ra hoa, đậu quả non. Dự báo thời tiết trong thời gian tới sẽ có nhiều ngày âm u, mưa phùn, độ ẩm không khí cao, thuận lợi cho một số loài sâu bệnh phát sinh và gây hại. Để hạn chế ảnh hưởng của thời tiết và sâu bệnh đến quá trình ra hoa, đậu quả của các loại cây ăn quả, các nhà vườn cần đẩy mạnh áp dụng các biện pháp kỹ thuật nhằm tăng tỷ lệ ra hoa, đậu quả, đồng thời theo dõi sát sao và phòng trừ sâu bệnh kịp thời theo khuyến cáo của ngành chuyên môn. Đối với cây vải, hiện nhiều diện tích đã đậu quả non. Việc chăm sóc, phòng trừ sâu bệnh trong giai đoạn hiện nay là một trong những yếu tố quyết định đến sản lượng, chất lượng vải của cả vụ.  b) Chăn nuôi Quý I năm 2025, nhiệm vụ trọng tâm đối với hoạt động chăn nuôi là phòng trừ dịch bệnh, bảo vệ an toàn đàn gia súc, gia cầm phục vụ Nhân dân trong dịp Tết Nguyên đán Ất Tỵ 2025 và mùa lễ hội đầu năm; bổ sung kịp thời lượng giống chăn nuôi để thay thế đàn gia súc, gia cầm đã giết mổ trong dịp Tết. Ước tính tại thời điểm 31/3/2025, số lượng đầu con gia súc, gia cầm trên địa bàn tỉnh như sau: trâu 4.735 con, giảm 1,62% so với cùng kỳ năm 2024; bò 30.271 con, tăng 1,65%; lợn 457.190 con, tăng 2,41%; gia cầm 9.002 nghìn con, tăng 2,55% (trong đó: gà 6.481 nghìn con, tăng 3,09%). Ước tính quý I năm 2025, sản lượng thịt hơi xuất chuồng như sau: thịt trâu 123 tấn, tăng 4,24% so với cùng kỳ năm trước; thịt bò 1.224 tấn, tăng 5,06%; thịt lợn 26.440 tấn, tăng 6,86%; thịt gia cầm (gà, vịt, ngan) 11.472 tấn, tăng 3,80% (trong đó: thịt gà 8.835 tấn, tăng 4,16%). c) Sản xuất thuỷ sản Diện tích nuôi trồng thủy sản toàn tỉnh ước tính đạt 4.879,06 ha (Diện tích chưa bao gồm nuôi lồng bè, bể bồn và ươm giống), giảm 4,59%, tương ứng giảm 237,8 ha so với cùng kỳ năm trước. Ước tính sản lượng thủy sản nuôi trồng quý I năm 2025 đạt 14.071 tấn, tăng 2,66%, tương đương tăng 364 tấn so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: cá các loại đạt 13.849 tấn, tăng 2,68%; tôm 63 tấn, tăng 3,61%; thủy sản khác 159 tấn, giảm 0,06%. Sản phẩm nuôi trồng chủ yếu vẫn là những giống cá trắm, chày, chép hoặc rô phi và một số giống cá khác cho năng suất cao như: cá mè, cá trôi,... Sản xuất giống thủy sản trên địa bàn tỉnh tiếp tục phát triển ổn định. Tổng sản lượng giống cung cấp toàn tỉnh trong quý I năm 2025 ước đạt 2.107 triệu con; tăng 5,06% so với năm 2024. Sản lượng giống cung cấp chủ yếu là cá bột và cá trắm giống, chiếm tới 98% sản lượng giống thủy sản. Hoạt động khai thác thuỷ sản trong tỉnh vẫn được duy trì ở quy mô nhỏ lẻ hộ gia đình. Những thuyền đánh cá trên sông phần nhiều là thuyền nhỏ không động cơ, một số người khai thác thuỷ sản không chuyên nghiệp bằng những dụng cụ đơn giản theo mùa vụ nên sản lượng khai thác được không nhiều. Ước tính sản lượng thuỷ sản khai thác quý I năm 2025 đạt 118 tấn, giảm 2,55%, tương đương giảm 3 tấn so với cùng kỳ năm 2024. Trong đó, cá 107 tấn, giảm 2,56%; tôm 9 tấn, giảm 2,17%; thủy sản khác 2,6 tấn giảm 3,70%. 3. Sản xuất công nghiệp So với tháng trước, chỉ số sản xuất công nghiệp tháng Ba giảm 1,26%. Trong đó: công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 0,72%; sản xuất và phân phối điện tăng 7,62%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 16,76%. Một số sản phẩm có sản lượng sản xuất giảm so với tháng trước như: rượu Vodka và rượu Cô nhắc giảm 64,42%; quần áo các loại giảm 3,32%; thanh, que sắt, thép không hợp kim được cán nóng, dạng cuộn cuốn không đều giảm 1,0%; ống dẫn bằng sắt, thép không nối, dùng để dẫn dầu hoặc khí giảm 9,15%; thiết bị dùng cho dàn giáo, ván khuôn, vật chống hoặc cột trụ chống hầm lò bằng sắt, thép, nhôm giảm 11,56%; dây cách điện đơn dạng cuộn khác giảm 17,05%; ... Bên cạnh đó, các sản phẩm có sản lượng sản xuất tăng so với tháng trước như: mỳ, phở, miến, bún, cháo ăn liền tăng 3,16%; thức ăn cho gia súc tăng 1,65%; thức ăn cho gia cầm tăng 0,88%; giày, dép khác chưa được phân vào đâu tăng 3,85%; thùng, hộp bằng bìa cứng (trừ bìa nhăn) tăng 4,90%; sơn và véc ni tan trong môi trường nước tăng 26,16%; sản phẩm bằng plastic tăng 4,52%; gạch xây dựng bằng đất sét nung (trừ gốm, sứ) quy chuẩn 220x105x60mm tăng 29,51%; bê tông trộn sẵn (bê tông tươi) tăng 4,58%; sắt, thép không hợp kim dạng thỏi đúc hoặc dạng thô khác tăng 23,40%; thép hợp kim khác dạng thỏi đúc hoặc dạng thô khác tăng 77,79%; góc, khuôn, hình bằng sắt, thép đã được hàn tăng 11,65%: mạch điện tử tích hợp tăng 18,95%; đĩa dùng cho hệ thống đọc bằng laser chưa ghi (vd: CD, DVD,...) tăng 13,44%; dây cách điện đơn bằng đồng tăng 13,20%;... So với cùng kỳ năm trước, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tháng Ba tăng 9,55%. Trong đó: công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 9,74%; sản xuất và phân phối điện tăng 0,65%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 9,43%. Một số sản phẩm có sản lượng sản xuất tăng so với cùng kỳ năm trước như: thức ăn cho gia súc tăng 1,48%; giày, dép khác chưa được phân vào đâu tăng 49,07%; gỗ ốp, lát công nghiệp tăng 64,10%; thùng, hộp bằng bìa cứng (trừ bìa nhăn) tăng 12,27%; thùng, hộp bằng giấy nhăn và bìa nhăn tăng 14,23%; sản phẩm bằng plastic tăng 9,67%; sản phẩm vệ sinh gắn cố định bằng gốm sứ tăng 108,17%; sắt, thép không hợp kim dạng thỏi đúc hoặc dạng thô khác tăng 50,81%; thanh, que sắt, thép không hợp kim được cán nóng, dạng cuộn cuốn không đều tăng 121,35%; thanh, que thép không gỉ, mới được gia công tạo hình nguội hoặc gia công kết nguội tăng 68,35%; đĩa dùng cho hệ thống đọc bằng laser chưa ghi tăng 13,68%;... Bên cạnh đó, các sản phẩm có sản lượng sản xuất giảm so với cùng kỳ năm trước như: mỳ, phở, miến, bún, cháo ăn liền giảm 11,91%; thức ăn cho gia cầm giảm 0,64%; rượu Vodka và rượu Cô nhắc giảm 68,87%; quần áo các loại giảm 0,39%; sơn và véc ni tan trong môi trường nước giảm 48,01%; mạch điện tử tích hợp giảm 20,76%; dây cách điện đơn bằng đồng giảm 17,38%; dây cách điện đơn dạng cuộn khác giảm 12,86%;... Tính chung quý I/2025, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 9,39% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 8,69%; sản xuất và phân phối điện tăng 8,74%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 32,37%. Một số ngành kinh tế cấp 2 của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo có chỉ số sản xuất tăng là: sản xuất trang phục tăng 9,55%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 42,01%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng 15,13%; in, sao chép bản ghi các loại tăng 59,59%; sản xuất hoá chất và sản phẩm hoá chất tăng 9,57%; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 15,50%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác tăng 14,80%; sản xuất kim loại tăng 11,42%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc, thiết bị) tăng 7,49%; sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tăng 4,67%; sản xuất máy móc, thiết bị chưa được phân vào đâu tăng 44,81%; sản xuất xe có động cơ tăng 45,76%; sản xuất phương tiện vận tải khác tăng 23,42%;... Bên cạnh đó, cũng một số ngành công nghiệp cấp 2 có chỉ số sản xuất giảm so với cùng kỳ như: sản xuất chế biến thực phẩm giảm 6,03%; sản xuất đồ uống giảm 1,11%; dệt giảm 16,96%; sản xuất thiết bị điện giảm 2,31%; sửa chữa, bảo dưỡng và lắp đặt máy móc và thiết bị giảm 29,99%;... Một số sản phẩm có sản lượng sản xuất tăng so với cùng kỳ năm trước như: sản xuất thức ăn cho gia súc tăng 1,29%; sản xuất thức ăn cho gia cầm tăng 0,74%; nước khoáng không có ga tăng 10,15%; quần áo các loại tăng 5,89%; giày, dép khác chưa được phân vào đâu tăng 43,29%; gỗ ốp, lát công nghiệp tăng 65,04%; thùng, hộp bằng bìa cứng (trừ bìa nhăn) tăng 16,19%; thùng, hộp bằng giấy nhăn và bìa nhăn tăng 12,72%; sản phẩm bằng plastic tăng 11,71%; sản phẩm vệ sinh gắn cố định bằng gốm sứ tăng 118,42%; bê tông trộn sẵn (bê tông tươi) tăng 9,50%; sắt, thép không hợp kim dạng thỏi đúc hoặc dạng thô khác tăng 12,88%; thanh, que sắt, thép không hợp kim được cán nóng, dạng cuộn cuốn không đều tăng 79,90%; thanh, que thép không gỉ, mới được gia công tạo hình nguội hoặc gia công kết nguội tăng 101,67%; góc, khuôn, hình bằng sắt, thép đã được hàn tăng 5,87%; ống dẫn bằng sắt, thép không nối, dùng để dẫn dầu hoặc khí tăng 32,72%; đĩa dùng cho hệ thống đọc bằng laser chưa ghi tăng 26,91%; máy giặt loại dùng cho hiệu giặt là quần áo với sức chứa > 10 kg vải khô một lần giặt tăng 38,68%; phụ tùng khác của xe có động cơ tăng 10,48%;... Các sản phẩm có sản lượng sản xuất giảm so với cùng kỳ năm trước như: sơn và véc ni tan trong môi trường nước giảm 24,47%; mạch điện tử tích hợp giảm 28,51%; động cơ đa năng một chiều/xoay chiều có công suất >37.5 W tăng 11,71%; dây cách điện đơn bằng đồng giảm 31,58%; dây cách điện đơn dạng cuộn khác giảm 8,96%;... 4. Hoạt động đầu tư, phát triển doanh nghiệp a) Hoạt động đầu tư Vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội: Tổng vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội quý I/2025 ước đạt 17.202 tỷ đồng, tăng 3.039 tỷ đồng, tương ứng tăng 21,46% so với cùng kỳ năm trước. Vốn đầu thực hiện toàn xã hội phân theo nguồn vốn như sau: vốn đầu tư nhà nước 4.440 tỷ đồng, tăng 48,52%; vốn đầu tư của dân cư và tư nhân 10.219 tỷ đồng, tăng 16,29%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 2.543 tỷ đồng, tăng 6,59%. Vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội quý I năm 2025 phân theo khoản mục đầu tư: vốn đầu tư xây dựng cơ bản 12.640 tỷ đồng, tăng 16,48%; vốn đầu tư mua sắm tài sản cố định dùng cho sản xuất không qua XDCB 2.898 tỷ đồng, tăng 15,85%; vốn đầu tư sửa chữa lớn, nâng cấp TSCĐ 1.401 tỷ đồng, tăng 92,07%; vốn đầu tư bổ sung vốn lưu động 261 tỷ đồng, tăng 344,62%; vốn đầu tư khác 1 tỷ đồng, giảm 93,80%. Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý tháng Ba năm 2025 ước đạt 1.546 tỷ đồng, tăng 90,45% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: vốn ngân sách nhà nước cấp tỉnh 863 tỷ đồng, tăng 138,91%; vốn ngân sách nhà nước cấp huyện 377 tỷ đồng, tăng 102,34%; vốn ngân sách nhà nước cấp xã 306 tỷ đồng, tăng 15,85%. Quý I năm 2025, vốn đầu tư thực hiện từ ngân sách nhà nước do địa phương quản lý ước đạt 4.431 tỷ đồng, tăng 77,72% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: vốn ngân sách nhà nước cấp tỉnh 2.474 tỷ đồng, tăng 103,11%; vốn ngân sách nhà nước cấp huyện 1.097 tỷ đồng, tăng 85,92%; vốn ngân sách nhà nước cấp xã 860 tỷ đồng, tăng 25,53%. Hoạt động đầu tư nước ngoài: Tính đến ngày 25/3/2025, toàn tỉnh có 632 dự án có vốn đầu tư nước ngoài đăng ký hoạt động, với tổng số vốn đăng ký đạt 8.673,03 triệu USD. Trong đó, từ đầu năm đến ngày 25/3/2025, có 19 dự án đăng ký mới với số vốn đăng ký 114,51 triệu USD. Các quốc gia có số dự án, vốn đầu tư chủ yếu là: Thứ nhất là Nhật Bản có 180 dự án, vốn đăng ký là 3.938,73 triệu USD, chiếm 45,41% tổng vốn đăng ký; thứ hai là Hàn Quốc có 162 dự án, vốn đăng ký 1.457,70 triệu USD, chiếm 16,81% tổng vốn đăng ký; thứ ba là Trung Quốc có 183 dự án, vốn đăng ký 1.418,35 triệu USD, chiếm 16,35% tổng số vốn đăng ký. b) Phát triển doanh nghiệp Tính từ ngày 22/02/2025 đến ngày 21/3/2025, số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới là 271 doanh nghiệp, với vốn đầu tư đăng ký 8.249 tỷ đồng. Các doanh nghiệp thành lập mới hoạt động trong các lĩnh vực: công nghiệp chế biến, chế tạo 62 doanh nghiệp, vốn đăng ký 1.040 tỷ đồng; xây dựng 16 doanh nghiệp, vốn đăng ký 851 tỷ đồng; bán buôn, bán lẻ, sửa chữa ô tô, xe máy 93 doanh nghiệp, vốn đăng ký 390 tỷ đồng; vận tải kho bãi 12 doanh nghiệp, vốn đăng ký 63 tỷ đồng; kinh doanh bất động sản 18 doanh nghiệp, vốn đăng ký 5.785 tỷ đồng; hoạt động chuyên môn, khoa học và công nghệ 8 doanh nghiệp, vốn đăng ký 18 tỷ đồng;... Lũy kế từ ngày 22/12/2024 đến ngày 21/3/2025, toàn tỉnh có 597 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, vốn đầu tư đăng ký đạt 11.732 tỷ đồng. Trong đó: ngành bán buôn, bán lẻ, sửa chữa ô tô, xe máy có số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới nhiều nhất, với 219 doanh nghiệp, vốn đăng ký đạt 972 tỷ đồng (chiếm 8,29% tổng vốn đăng ký); công nghiệp chế biến, chế tạo 132 doanh nghiệp, vốn đăng ký đạt 2.370 tỷ đồng (chiếm 20,20%); giáo dục và đào tạo 68 doanh nghiệp, vốn đăng ký 80 tỷ đồng (chiếm 0,69%); xây dựng 40 doanh nghiệp, vốn đăng ký 948 tỷ đồng (chiếm 8,08%); hoạt động vận tải, kho bãi 27 doanh nghiệp, vốn đăng ký 143 tỷ đồng (chiếm 1,22%); kinh doanh bất động sản 27 doanh nghiệp, vốn đăng ký 6.870 tỷ đồng (chiếm 58,56%); hoạt động chuyên môn, khoa học và công nghệ 21 doanh nghiệp, vốn đăng ký 77 tỷ đồng (chiếm 0,66%); hoạt động hành chính và dịch vụ hỗ trợ 20 doanh nghiệp, vốn đăng ký 79 tỷ đồng (chiếm 0,67%);... Số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động trong tháng Ba (tính từ ngày 22/02/2025 đến ngày 21/3/2025) là 13 doanh nghiệp. Lũy kế từ ngày 22/12/2024 đến ngày 21/3/2025, số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động sau thời gian tạm ngừng là 127 doanh nghiệp. Cũng từ ngày 22/02/2025 đến ngày 21/3/2025, số doanh nghiệp giải thể là 29 doanh nghiệp, doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh là 34 doanh nghiệp. Lũy kế từ ngày 22/12/2024 đến ngày 21/3/2025, toàn tỉnh có 69 doanh nghiệp giải thể và 514 doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh. Trong đó: ngành công nghiệp chế biến, chế tạo có 17 doanh nghiệp giải thể và 126 doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động, lần lượt chiếm 24,64% tổng số doanh nghiệp giải thể và chiếm 24,51% tổng số doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động; ngành bán buôn, bán lẻ có 25 doanh nghiệp giải thể và 186 doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động, chiếm 36,23% và 36,19%; kinh doanh bất động sản có 3 doanh nghiệp giải thể và 20 doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh, chiếm 4,35% và 3,89%; hoạt động chuyên môn, khoa học và công nghệ có 4 doanh nghiệp giải thể và 18 doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động, chiếm 5,80% và 3,50%;... 5. Thương mại, dịch vụ Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng Ba ước đạt 10.882 tỷ đồng, tăng 9,12% so với tháng trước và tăng 26,05% so cùng kỳ năm trước. Quý I năm 2025, tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước đạt 29.951 tỷ đồng, tăng 18,14% so với cùng kỳ năm 2024. Cụ thể như sau: Doanh thu bán lẻ hàng hóa tháng Ba ước đạt 3.028 tỷ đồng, tăng 1,74% so với tháng trước và tăng 13,30% so với cùng kỳ năm trước. Doanh thu bán lẻ hàng hóa tăng so với tháng trước chủ yếu là do các ngành sau: lương thực, thực phẩm có doanh thu tăng 1,37%; hàng may mặc tăng 12,17%; đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình tăng 1,18%; ô tô con (dưới 9 chỗ ngồi) tăng 25,26%; xăng, dầu các loại tăng 1,58%; đá quý, kim loại quý và sản phẩm tăng 4,15%; hàng hóa khác tăng 2,84%;... Bên cạnh một số nhóm hàng có doanh thu tăng, trong tháng cũng có một số mặt hàng có doanh thu giảm so với tháng trước như: vật phẩm, văn hoá, giáo dục giảm 1,70%; gỗ và vật liệu xây dựng giảm 0,85%; phương tiện đi lại, trừ ô tô con giảm 2,46%; nhiên liệu khác (trừ xăng dầu) giảm 1,14%. Quý I năm 2025, doanh thu bán lẻ hàng hóa ước đạt 9.104 tỷ đồng, tăng 13,76% so với cùng kỳ năm trước. Tốc độ tăng, giảm doanh thu một số nhóm ngành hàng, dịch vụ chủ yếu như sau: lương thực, thực phẩm tăng 14,95%; may mặc giảm 6,26%; đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình tăng 20,16%; vật phẩm, văn hoá, giáo dục tăng 18,71%; gỗ và vật liệu xây dựng tăng 10,27%; ô tô con (dưới 9 chỗ ngồi) giảm 8,51%; phương tiện đi lại, trừ ô tô con (kể cả phụ tùng) tăng 68,59%; xăng, dầu các loại tăng 1,07%; nhiên liệu khác (trừ xăng dầu) tăng 29,17%; hàng hoá khác tăng 15,43%;... Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống tháng Ba ước đạt 284 tỷ đồng, tăng 1,23% so với tháng trước và tăng 20,22% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: doanh thu dịch vụ lưu trú 10 tỷ đồng, tăng 3,04% so với tháng trước và tăng 13,02% so với cùng kỳ năm trước; doanh thu dịch ăn uống 274 tỷ đồng, tăng 1,16% so với tháng trước và tăng 20,51% so với cùng kỳ năm trước. Quý I năm 2025, doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống ước đạt 881 tỷ đồng, tăng 23,85% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: doanh thu dịch vụ lưu trú 32 tỷ đồng, tăng 15,14%; doanh thu dịch vụ ăn uống 849 tỷ đồng, tăng 24,20%. Doanh thu dịch vụ du lịch và lữ hành tháng Ba ước đạt 3 tỷ đồng, tăng 4,73% so với tháng trước và giảm 45,43% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung quý I năm 2025, doanh thu dịch vụ du lịch lữ hành ước đạt 9 tỷ đồng, giảm 36,57% so với quý I năm 2024. Doanh thu ngành dịch vụ khác tháng Ba ước đạt 7.566 tỷ đồng tăng 12,72% so với tháng trước và tăng 32,32% so cùng kỳ năm trước. Trong đó, ngành dịch vụ kinh doanh bất động sản ước đạt 7.065 tỷ đồng, tăng 13,57% so với tháng trước và tăng 36,35% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung quý I năm 2025, doanh thu ngành dịch vụ khác ước đạt 19.957 tỷ đồng, tăng 20,05% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: dịch vụ kinh doanh bất động sản có doanh thu ước đạt 18.431 tỷ đồng, tăng 23,70%; dịch vụ hành chính và dịch vụ hỗ trợ 555 tỷ đồng, tăng 6,48%; giáo dục và đào tạo 381 tỷ đồng, tăng 6,08%; y tế và hoạt động trợ giúp xã hội 160 tỷ đồng, tăng 7,77%; nghệ thuật, vui chơi và giải trí 66 tỷ đồng, tăng 57,12%; doanh thu dịch vụ khác 364 tỷ đồng, tăng 11,33%. 6. Chỉ số giá tiêu dùng So với tháng trước, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng Ba tăng 0,16%. Trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ chính, có 08 nhóm có chỉ số giá tăng, 02 nhóm có chỉ số giá giảm và 01 nhóm có chỉ số giá ổn định. Các nhóm hàng hóa và dịch vụ chính có chỉ số giá tăng là: hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,76%; đồ uống và thuốc lá tăng 0,12%; nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 0,21%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,10%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,02%; bưu chính viễn thông tăng 0,08%; văn hoá, giải trí và du lịch tăng 0,10%; hàng hoá và dịch vụ khác tăng 0,40%. Các nhóm hàng hóa và dịch vụ chính có chỉ số giá giảm là: may mặc, mũ nón và giày dép giảm 0,11%; giao thông giảm 1,69%. Riêng nhóm dịch vụ giáo dục có chỉ số giá ổn định so với tháng trước. So với tháng 12/2024, chỉ số giá tiêu dùng Ba tăng 1,62%. Trong đó: hàng ăn uống và dịch vụ ăn uống tăng 0,91%; đồ uống và thuốc lá tăng 0,87%; hàng may mặc, mũ nón, giày, dép tăng 0,94%; nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 0,54%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,24%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 12,39%; dịch vụ giao thông giảm 0,79%; bưu chính, viễn thông giảm 0,11%; giáo dục giảm 0,09%; văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,01%; hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,93%. So với tháng cùng kỳ năm 2024, chỉ số giá tiêu dùng tháng Ba tăng 3,61%. Trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng chính, có 09 nhóm tăng giá và 02 nhóm giảm giá. Cụ thể, nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 3,37% (lương thực tăng 2,38%; thực phẩm tăng 3,83%; ăn uống ngoài gia đình tăng 1,60%); đồ uống và thuốc lá tăng 1,52%; hàng may mặc, mũ nón, giày, dép tăng 3,71%; nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 7,99%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 1,15%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 12,57%; dịch vụ giao thông giảm 5,70%; dịch vụ bưu chính, viễn thông tăng 0,16%; giáo dục giảm 1,68%; văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,16%; hàng hóa và dịch vụ khác tăng 7,20%. Bình quân chung quý I/2025, chỉ số giá tiêu dùng tăng 4,0% so với cùng kỳ năm trước. Trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng chính, có 08 nhóm tăng giá và 03 nhóm giảm giá. Cụ thể, hàng ăn uống và dịch vụ ăn uống tăng 3,47%; đồ uống và thuốc lá tăng 1,51%; hàng may mặc, mũ nón, giày, dép tăng 4,30%; nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 8,73%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 1,09%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 12,55%; văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,78%; hàng hoá và dịch vụ khác tăng 7,17%; giao thông giảm 3,72%; bưu chính, viễn thông giảm 0,06%; dịch vụ giáo dục giảm 1,49%. b) Chỉ số giá vàng và đô la Mỹ Giá vàng tiếp tục tăng mạnh, ghi nhận nhiều mức tăng kỷ lục nhất từ trước tới nay. Thời gian qua, lãi suất liên tục giảm, đầu tư khó khăn, thị trường bất động sản vẫn còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ. Do đó, dòng tiền có xu hướng chảy sang kim loại quý là vàng. Tâm lý “mua vàng còn giữ được giá” khiến nhiều người ưu tiên tích trữ vàng hơn. Giá vàng tại thị trường Hưng Yên tháng 3/2025 tăng 4,26% so với tháng trước. Hiện giá vàng đang ở mức giá cao nhất trong mấy năm trở lại gần đây, bình quân tháng 3/2025, giá vàng xấp xỉ 9.313.000 VNĐ/1 chỉ. Trên thế giới, đồng đô la Mỹ đã tăng lên mức cao nhất trong nhiều tuần so với đồng Euro và Yên Nhật Bản (JPY) sau khi dữ liệu cho thấy hoạt động kinh doanh tại Mỹ đã phục hồi trong tháng 3/2025. Đồng USD đã tăng trước đó so với đồng Yên Nhật Bản do có thông tin cho rằng Tổng thống Mỹ Donald Trump sẽ linh hoạt với các mức thuế sắp tới. Giá đồng đô la Mỹ trên địa bàn tỉnh có xu hướng tăng cao hơn so với tháng trước - tăng 0,93% do nhu cầu mua đầu tư tích trữ của các nhà đầu tư tăng. Tỷ giá chuyển đổi 1 USD xấp xỉ 25.704 VNĐ. 7. Hoạt động vận tải Doanh thu vận tải, kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải và bưu chính, chuyển phát tháng Ba ước đạt 619 tỷ đồng, tăng 1,50% so với tháng trước và tăng 14,47% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung quý I/2024, doanh thu vận tải, kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải và bưu chính, chuyển phát ước đạt 1.861 tỷ đồng, tăng 12,59% so với cùng kỳ năm trước. a) Hoạt động vận tải hành khách Vận tải hành khách tháng Ba ước đạt 1.394 nghìn lượt người vận chuyển và 87.660 nghìn lượt người luân chuyển, lần lượt tăng 5,66% về lượt người vận chuyển và tăng 3,74% về lượt người luân chuyển so với cùng kỳ năm trước; doanh thu vận tải hành khách ước đạt 84 tỷ đồng, tăng 7,14%. Tính chung quý I năm 2025, vận tải hành khách ước đạt 4.080 nghìn lượt người vận chuyển và 258.978 nghìn lượt người luân chuyển, lần lượt tăng 2,95% về lượt người vận chuyển và tăng 2,32% về lượt người luân chuyển so với cùng kỳ năm trước; doanh thu vận tải hành khách ước đạt 247 tỷ đồng, tăng 5,30%. b) Hoạt động vận tải hàng hoá Vận tải hàng hoá tháng Ba ước đạt 1.635 nghìn tấn vận chuyển và 202.173 nghìn tấn luân chuyển, lần lượt tăng 20,89% về tấn hàng hóa vận chuyển và tăng 16,38% về tấn hàng hóa luân chuyển so với cùng kỳ năm trước; doanh thu vận tải hàng hóa ước đạt 451 tỷ đồng, tăng 16,66%. Tính chung quý I năm 2025, vận tải hàng hoá ước đạt 4.721 nghìn tấn vận chuyển và 626.972 nghìn tấn luân chuyển, lần lượt tăng 12,11% về tấn hàng hoá vận chuyển và tăng 19,54% về tấn hàng hoá luân chuyển so với cùng kỳ năm trước; doanh thu vận tải hàng hóa ước đạt 1.353 tỷ đồng, tăng 14,34%. c) Kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải và bưu chính, chuyển phát Doanh thu kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải tháng Ba ước đạt 66 tỷ đồng, tăng 14,97% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung quý I năm 2025, doanh thu kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải ước đạt 203 tỷ đồng, tăng 13,10% so với cùng kỳ năm trước. Doanh thu bưu chính, chuyển phát tháng Ba ước đạt 19 tỷ đồng, giảm 1,22% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung quý I năm 2025, doanh thu bưu chính, chuyển phát ước đạt 57 tỷ đồng, tăng 4,32% so với cùng kỳ năm trước. 8. Hoạt động tài chính, ngân hàng a) Thu ngân sách nhà nước Thu ngân sách nhà nước tháng Ba ước đạt 3.776 tỷ đồng, tăng 96,18% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Thu nội địa 3.362 tỷ đồng, tăng 111,43%; thuế xuất nhập khẩu 414 tỷ đồng, tăng 23,73%. Một số khoản thu trong tháng dự tính như sau: thu từ doanh nghiệp nhà nước 14 tỷ đồng, tăng 24,09%; thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 194 tỷ đồng, tăng 83,81%; thu từ khu vực ngoài quốc doanh 1.208 tỷ đồng, tăng 128,27%; thu thuế thu nhập cá nhân 221 tỷ đồng, tăng 33,19%; các khoản thu về đất 1.587 tỷ đồng, tăng 149,09%;... Quý I năm 2025, thu ngân sách nhà nước ước đạt 12.109 tỷ đồng, tăng 19,06% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: thu nội địa 10.942 tỷ đồng, tăng  19,54%; thuế xuất nhập khẩu 1.167 tỷ đồng, tăng 14,76%. Một số khoản thu nội địa như sau: thu từ doanh nghiệp nhà nước 59 tỷ đồng, giảm 2,19%; thu từ khu vực có vốn đầu tư nước ngoài 1.147 tỷ đồng, tăng 29,26%; thu từ khu vực ngoài quốc doanh 5.563 tỷ đồng, tăng 21,42%; thu lệ phí trước bạ 215 tỷ đồng, tăng 60,56%; thuế thu nhập cá nhân 754 tỷ đồng, tăng 51,05%; các khoản thu về đất 3.001 tỷ đồng, tăng 13,08%;... b) Chi ngân sách nhà nước Chi ngân sách nhà nước tháng Ba ước đạt 1.513 tỷ đồng, tăng 53,49% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: chi đầu tư phát triển 712 tỷ đồng, tăng 138,17%; chi thường xuyên 801 tỷ đồng, tăng 16,64%. Một số lĩnh vực chi thường xuyên trong tháng như sau: chi sự nghiệp kinh tế 65 tỷ đồng, tăng 2,71%; chi giáo dục, đào tạo 300 tỷ đồng, tăng 34,92%; chi sự nghiệp y tế 123 tỷ đồng, giảm 29,45%; chi sự nghiệp văn hóa, thể dục thể thao 20 tỷ đồng, tăng 99,87%; chi đảm bảo xã hội 33 tỷ đồng, giảm 48,86%; chi quản lý hành chính 201 tỷ đồng, tăng 69,20%;... Quý I năm 2025, chi ngân sách nhà nước ước đạt 10.082 tỷ đồng, tăng 17,06% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: chi đầu tư phát triển 7.856 tỷ đồng, tăng 15,31%; chi thường xuyên 2.226 tỷ đồng, tăng 23,69%. Một số lĩnh vực chi thường xuyên như sau: chi sự nghiệp kinh tế 114 tỷ đồng, tăng 17,77%; chi giáo dục, đào tạo 869 tỷ đồng, tăng 32,52%; chi sự nghiệp y tế 203 tỷ đồng, giảm 17,99%; chi sự nghiệp văn hóa, thể dục thể thao 42 tỷ đồng, tăng 55,58%; chi đảm bảo xã hội 178 tỷ đồng, giảm 4,91%; chi quản lý hành chính 643 tỷ đồng, tăng 45,51%;... c) Hoạt động ngân hàng Ước tính đến 31/3/2025, nguồn vốn huy động của các tổ chức tín dụng đạt 151.080 tỷ đồng, tăng 3,60% so với thời điểm 31/12/2024. Trong đó: tiền gửi 150.306 tỷ đồng, tăng 3,56% và chiếm 99,49% nguồn vốn huy động; phát hành giấy tờ có giá 774 tỷ đồng, tăng 12,50% và chiếm 0,51%.   Dư nợ tín dụng đối với nền kinh tế ước tính đến thời điểm 31/3/2025 đạt 117.651 tỷ đồng, tăng 1,50% so với thời điểm 31/12/2024. Trong đó: Dư nợ cho vay ngắn hạn 84.981 tỷ đồng, tăng 0,69%; dư nợ cho vay trung và dài hạn 32.670 tỷ đồng, tăng 3,68%. Dư nợ cho vay bằng nội tệ 113.832 tỷ đồng, tăng 1,48%; dư nợ cho vay bằng ngoại tệ 3.818 tỷ đồng, tăng 2,07%. Dư nợ tín dụng trong các lĩnh vực được ưu tiên đạt 81.683 tỷ đồng, tăng 1,41% so với thời điểm 31/12/2024. Chia theo lĩnh vực như sau: nông nghiệp, nông thôn 50.889 tỷ đồng, tăng 1,50%; xuất khẩu 2.088 tỷ đồng, tăng 1,47%; doanh nghiệp nhỏ và vừa 23.748 tỷ đồng, tăng 1,50%; công nghiệp hỗ trợ 4.959 tỷ đồng, ổn định so với thời điểm 31/12/2024. Về chất lượng tín dụng: Nợ xấu là 1.292 tỷ đồng (chiếm 1,10% dư nợ tín dụng), tăng 5,38% so với thời điểm 31/12/2024. II. MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG XÃ HỘI 1. Đời sống dân cư và bảo đảm an sinh xã hội a) Đời sống dân cư Nhìn chung, kinh tế - xã hội tỉnh trong quý I năm 2025 phát triển ổn định; tăng trưởng các ngành, lĩnh vực đều đạt tốc độ khá; công tác sắp xếp, hoàn thiện bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả gắn với tinh giản biên chế, cơ cấu lại và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức được thực hiện tích cực. Vì vậy, đời sống nhân dân và an sinh xã hội cơ bản được bảo đảm, giải quyết được nhiều việc làm cho người lao động, quốc phòng an ninh được giữ vững. b) An sinh xã hội Nhân dịp Tết Nguyên đán Ất Tỵ năm 2025, tỉnh đã tổ chức thăm, tặng quà 72.613 lượt người có công, gia đình liệt sĩ và 04 tập thể với tổng số tiền gần 43 tỷ đồng. Thực hiện tiếp nhận, xét duyệt 893 lượt hồ sơ giải quyết chế độ liên quan đến người có công và thân nhân người có công (trong đó: 713 lượt hồ sơ trực tuyến liên thông 3 cấp; 163 lượt hồ sơ tiếp nhận qua hệ thống một cửa điện tử của tỉnh; thẩm định, trình cơ quan có thẩm quyền xét duyệt 01 hồ sơ đề nghị truy tặng danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng; trình UBND tỉnh ban hành quyết định phê duyệt chế độ bảo hiểm y tế cho 16 người). Tổ chức chi trả trợ cấp ưu đãi hằng tháng cho gần 20.650 người/tháng, tổng kinh phí chi trả các đối tượng từ ngân sách trung ương thực hiện Pháp lệnh ưu đãi người có công trên 160 tỷ đồng. Tiếp tục phối hợp với cơ quan, đơn vị và địa phương có liên quan thực hiện Kế hoạch triển khai thu nhận mẫu ADN cho thân nhân của liệt sĩ chưa xác định được danh tính. 2. Lao động, việc làm Trong quý I/2025, tỉnh đã tiếp nhận, thẩm định 896 hồ sơ thủ tục hành chính đề nghị cấp giấy phép lao động cho người lao động nước ngoài làm việc tại tỉnh. Số người lao động được giải quyết việc làm trong quý I/2025 là 6.247 người, trong đó xuất khẩu lao động là 943 người, tập trung chủ yếu ở các quốc gia: Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan,... Quý I năm 2025, tỉnh đã tổ chức tư vấn về việc làm, chính sách lao động việc làm cho 8.042 người. Trong đó, người lao động 6.918 người; số người sử dụng lao động 1.124 người. Số người được giới thiệu việc làm là 678 người. 3. Hoạt động văn hóa, thể thao a) Hoạt động văn hóa Quý I năm 2025, toàn tỉnh đã thực hiện tốt các hoạt động để phát triển văn hóa, thể thao, du lịch, thông tin, báo chí, xuất bản tại địa phương theo đúng quy định của pháp luật. Nhiều hoạt động kỷ niệm các ngày lễ, ngày Tết diễn ra sôi nổi như: Kỷ niệm 95năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (03/02/1930-03/02/2025) và mừng Xuân Ất Tỵ năm 2025; kỷ niệm 115 năm ngày Quốc tế Phụ nữ 8/3 và 1985 năm Khởi nghĩa Hai Bà Trưng. Thư viện tỉnh đã tổ chức trưng bày sách báo, tài liệu mừng Đảng, mừng Xuân Ất Tỵ 2025; trưng bày sách báo tại Hội Báo Xuân Ất Tỵ; trưng bày sách báo, xếp mô hình sách nghệ thuật tại Đại hội Cháu ngoan Bác Hồ tỉnh Hưng Yên lần thứ VI, năm 2025; tuyên truyền, giới thiệu sách báo, tài liệu kỷ niệm 95 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam; kỷ niệm 115 năm ngày Quốc tế Phụ nữ 08/3 và 1985 năm khởi nghĩa Hai Bà Trưng; tuyên truyền sách hay, sách mới trên website và facebook Thư viện tỉnh; biên soạn và phát hành thư mục bài trích báo, tạp chí có nội dung về kinh tế, văn hóa, giáo dục,... của tỉnh Hưng Yên, gồm 70 bài trích; sưu tầm tài liệu, biên soạn thư mục chuyên đề toàn văn về “Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh” và “Danh nhân Hoàng Hoa Thám”; phối hợp tổ chức Hội nghị nói chuyện chuyên đề với chủ đề: “Đọc sâu - Nhớ lâu”, thu hút trên 500 giáo viên và học sinh tham dự Nhà hát Chèo đã tổ chức 31 buổi biểu diễn chương trình nghệ thuật trong và ngoài tỉnh phục vụ nhiệm vụ chính trị và nhu cầu hưởng thụ văn hóa, giải trí của Nhân dân, tiêu biểu như: Chương trình nghệ thuật khai mạc trưng bày tranh dân gian Việt Nam và Chợ Tết Việt; chương trình nghệ thuật chào mừng 95 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và mừng Xuân Ất Tỵ 2025. Dàn dựng vở mới “Bến sông trăng” để tham dự Liên hoan nghệ thuật sân khấu về hình tượng người chiến sĩ Công an Nhân dân. Trung tâm Văn hóa - Điện ảnh tỉnh tổ chức 202 buổi chiếu phim (26 buổi lưu động, 176 buổi tại rạp) phục vụ nhiệm vụ chính trị và nhu cầu hưởng thụ văn hóa, giải trí của Nhân dân. Về mỹ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm: Tổ chức trưng bày, triển lãm ảnh tư liệu về những thành tựu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, hình ảnh quê hương Hưng Yên. b) Hoạt động thể dục, thể thao Thể dục, thể thao quần chúng: Toàn tỉnh tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động “Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại”. Đơn vị chuyên môn thường xuyên phối hợp với các ngành, các cấp, các Liên đoàn thể thao để phát triển phong trào tập luyện thể dục thể thao nâng cao sức khỏe trong mọi tầng lớp Nhân dân; phong trào TDTT của tỉnh ngày càng phát triển theo hướng ổn định và đi vào chiều sâu, chất lượng. Xây dựng và ban hành kế hoạch thi đấu các giải thể thao quần chúng năm 2025; tổ chức thành công 02 giải thể thao quần chúng cấp tỉnh (Bóng bàn, Cầu lông). Từ ngày 21-23/3/2025, tại sân Pickleball Phố Hiến - thành phố Hưng Yên đã diễn ra giải Pickleball cán bộ lãnh đạo, quản lý và vô địch các nhóm tuổi tỉnh Hưng Yên năm 2025. Đây là lần đầu tiên tỉnh tổ chức Giải vô địch Pickleball cấp tỉnh. Tham dự giải có 37 đơn vị, câu lạc bộ với tổng số 250 vận động viên đến từ các sở, ban, ngành, huyện, thị xã, thành phố, câu lạc bộ. Về thể thao thành tích cao và thể thao chuyên nghiệp: Trong quý I năm 2025, đoàn thể thao của tỉnh đã tham gia thi đấu 02 giải (Vô địch Karate Miền Bắc lần thứ V năm 2025, giải Muay Vô địch các CLB toàn quốc năm 2025), đạt 13 huy chương các loại, trong đó: 01 HCV, 03 HCB, 09 HCĐ. 4. Hoạt động y tế Bệnh tay chân miệng: lũy kế từ đầu năm 2025 đến ngày 28/3/2025, toàn tỉnh ghi nhận tổng số 33 ca (tăng 05 ca so với cùng kỳ năm 2024), được sàng lọc tại bệnh viện khi đến khám và điều trị, không có trường hợp tử vong. Bệnh Sởi: tình hình bệnh Sởi đang có chiều hướng gia tăng từ cuối năm 2024, lũy kế từ đầu năm 2025 đến ngày 28/3/2025, tỉnh đã ghi nhận tổng số 188 ca mắc/nghi mắc có địa chỉ tại Hưng Yên (trong đó có 121 ca được phát hiện, chẩn đoán xác định dương tính tại các bệnh viện tuyến trung ương). Nhìn chung, số ca mắc đơn lẻ, rải rác tại một số địa phương, trong đó nhiều nhất tại thành phố Hưng Yên (hiện còn 8 ca đang điều trị tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh; 6 ca tại Bệnh viện Sản Nhi, và 2 ca tại Bệnh viện Đa khoa Phố Nối, người bệnh có sức khỏe ổn định), không có ca nặng, không có ca tử vong, không ghi nhận ổ dịch. Tình hình một số bệnh truyền nhiễm khác: - Covid-19: lũy kế từ đầu năm đến ngày 28/3/2025, toàn tỉnh ghi nhận 01 ca, chưa có ca tử vong. - Bệnh Ho gà: lũy kế từ đầu năm đến ngày 28/3/2025, toàn tỉnh ghi nhận 02 ca, chưa có ca tử vong. - Bệnh bạch hầu: Năm 2025 chưa ghi nhận ca mắc. - Bệnh cúm mùa: Toàn tỉnh chưa ghi nhận ca bệnh nhiễm cúm A H5N1 và H7N9, số ca mắc cúm mùa từ đầu năm 2025 đến ngày 28/3/2025 là 1.860 ca theo hệ thống báo cáo bệnh truyền nhiễm. 5. Bảo vệ môi trường và phòng chống cháy, nổ Từ ngày 26/02/2025 đến ngày 25/3/2025, trên địa bàn tỉnh đã phát hiện 2 vụ vi phạm môi trường, hiện chưa xử lý, đang củng cố hồ sơ. So với tháng trước, số vụ vi phạm giảm 18 vụ (giảm 90,0%); số vụ xử lý vi phạm giảm 20 vụ; số tiền xử phạt giảm 119 triệu đồng. So với cùng kỳ năm trước, số vụ vi phạm tăng 1 vụ (tăng 100,0%); số vụ xử lý giảm 1 vụ; số tiền xử phạt giảm 20 triệu đồng. Lũy kế từ ngày 26/12/2024 đến ngày 25/3/2025, toàn tỉnh đã phát hiện 37 vụ vi phạm môi trường, xử lý 29 vụ với số tiền xử phạt 199 triệu đồng. So với cùng kỳ năm trước, số vụ vi phạm tăng 25 vụ (tăng 208,33%); số vụ đã xử lý 29 vụ, tăng 17 vụ (tăng 141,67%); số tiền xử phạt tăng 39 triệu đồng (tăng 24,38%). Nguyên nhân xử phạt chủ yếu về vi phạm quản lý chất thải nguy hại, xả thải vượt quá tiêu chuẩn, quy chuẩn ra môi trường; tiếp nhận chất thải rắn không đúng quy định; khai thác cát trái phép, an toàn vệ sinh thực phẩm,... Từ ngày 15/02/2025 đến ngày 14/3/2025, trên địa bàn tỉnh Hưng Yên không xảy ra vụ cháy, nổ nào. Lũy kế từ ngày 15/12/2024 đến ngày 14/3/2025, toàn tỉnh đã xảy ra 5 vụ cháy, không có vụ nổ, số vụ cháy giảm 10 vụ, tương ứng giảm 66,67% so với cùng kỳ năm trước. 6. An toàn giao thông      Theo số liệu của Ban An toàn giao thông tỉnh Hưng Yên, từ ngày 15/02/2025 đến 14/3/2025, toàn tỉnh xảy ra 17 vụ tai nạn giao thông, đều là tai nạn đường bộ, làm chết 11 người, làm bị thương 12 người. So với tháng trước, số vụ tai nạn giảm 4 vụ, giảm 19,05%; số người chết giảm 2 người, giảm 15,38%; số người bị thương giảm 5 người, giảm 29,41%. So với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn giảm 32 vụ, giảm 65,31%; số người chết giảm 5 người, giảm 31,25%; số người bị thương giảm 29 người, giảm 70,73%. Lũy kế từ ngày 15/12/2024 đến hết ngày 14/3/2025, toàn tỉnh đã xảy ra 65 vụ tai nạn giao thông, làm chết 40 người, làm bị thương 41 người. So với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn giảm 126 vụ, giảm 65,97%; số người chết giảm 23 người, giảm 36,51%; số người bị thương giảm 136 người, giảm 76,84%./.

Tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Hưng Yên tháng Hai và hai tháng đầu năm 2025
  •   10/03/2025 07:26

1. Nông nghiệp và thủy sản     Thời gian qua, các địa phương trong tỉnh đã tập trung lấy nước đổ ải theo đúng kế hoạch, đồng thời lấy nước đến đâu tiến hành làm đất ngay đến đó, bảo đảm chất lượng đất cho gieo cấy lúa xuân. Đến thời điểm này, hoạt động sản xuất nông nghiệp và thủy sản toàn tỉnh cơ bản ổn định, cụ thể như sau: a) Nông nghiệp Cây hằng năm: Theo kết quả sơ bộ điều tra diện tích vụ đông năm 2024- 2025, tổng diện tích gieo trồng toàn tỉnh đạt 6.752 ha, giảm 0,64%, tương ứng giảm 42 ha so với vụ đông năm trước. Cụ thể: ngô 1.307 ha, tăng 0,99% (tăng 13 ha); khoai lang 148 ha, tăng 12,06% (tăng 16 ha); đậu tương 147 ha, giảm 26,17% (giảm 52 ha); rau các loại 4.093 ha, tăng 0,64% (tăng 27 ha); đậu, đỗ các loại 70 ha, tăng 11,0% (tăng 7 ha); hoa các loại 335 ha, giảm 5,23% (giảm 19 ha);... Thời tiết cuối năm 2024 cơ bản thuận lợi cho gieo trồng cây vụ đông. Tuy nhiên, nửa đầu tháng 9/2024, do ảnh hưởng của cơn bão số 3 (bão Yagi) và mưa, lũ sau bão đã gây ngập úng cục bộ một số diện tích trồng cây vụ đông sớm của tỉnh, đồng thời làm ảnh hưởng đến tiến độ trồng cây vụ đông, nhất là cây vụ đông ưa ấm. Đến ngày 20/02/2025, các địa phương trong tỉnh đã cơ bản kết thúc thu hoạch cây vụ đông, nhất là những diện tích ở chân ruộng 2 vụ lúa để nhường đất cho gieo cấy lúa vụ xuân. Vụ xuân năm nay, tỉnh có kế hoạch gieo trồng 23.600 ha lúa. Để thực hiện thắng lợi kế hoạch sản xuất vụ xuân, thời gian qua, các cấp, các ngành, các địa phương trong tỉnh đã tích cực chỉ đạo một số công việc trọng tâm như: cung cấp đủ lượng thóc giống, kể cả giống dự phòng cho nông dân; thực hiện tốt kế hoạch đổ ải 2 đợt (đợt 1 từ 12/01/2025 - 16/01/2025; đợt 2 từ 08/02/2025 - 14/02/2025). Theo báo cáo tiến độ sản xuất nông nghiệp, đến ngày 20/02/2025, toàn tỉnh đã gieo cấy được 15.152 ha lúa, đạt 64% kế hoạch. Trong đó, diện tích cấy tay đạt 6.600 ha, cấy máy đạt 1.629 ha, gieo thẳng đạt 6.923 ha. Cũng đến ngày 20/02/2025, diện tích làm đất lần 2 của tỉnh đạt 21.748 ha và 4.421 ha lúa được chăm sóc lần 1. Toàn tỉnh phấn đấu hoàn thành kế hoạch gieo cấy lúa xuân trước 05/3/2025. Bên cạnh việc gieo cấy lúa xuân, nông dân tại các địa phương còn đẩy mạnh việc gieo trồng rau màu vụ xuân. Đến ngày 20/2/2025, toàn tỉnh đã gieo trồng được 1.962 ha rau màu vụ xuân. Cây lâu năm: Tình hình sản xuất cây lâu năm của tỉnh vẫn tiếp tục phát triển. Thời điểm tháng Hai, cây nhãn, vải đang trong giai đoạn phân hóa mầm hoa, phát triển nụ, hiện nhà vườn đang tiến hành áp dụng các biện pháp kỹ thuật chăm sóc nhằm tăng tỷ lệ ra hoa, đậu quả. Đối với cây chuối và cây có múi, hiện nay cơ bản đã thu hoạch xong, các nhà vườn đang tập trung chăm sóc để cây phục hồi nhanh, đâm chồi, nảy lộc, ra hoa, đậu quả. Các địa phương cần tranh thủ thời tiết tạnh ráo, chủ động phun phòng trừ bệnh sương mai và sâu lưu trú qua đông trên các cây nhãn, vải và cây có múi để bảo vệ hoa và lộc non theo đúng hướng dẫn của các ngành chuyên môn. Ngày 05/2/2025, tại phường Nhân Hòa (thị xã Mỹ Hào), Tỉnh ủy, HĐND, UBND, Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh long trọng tổ chức Lễ phát động “Tết trồng cây đời đời nhớ ơn Bác Hồ” Xuân Ất Tỵ năm 2025. Đồng chí Tô Lâm, Tổng Bí thư BCH Trung ương Đảng và đoàn công tác của Trung ương đã đến dự. Toàn tỉnh hình thành 185 tuyến đường có cây xanh mới tại các khu đô thị, các khu công nghiệp, khu dân cư. Cùng với trồng cây Nhân dân, các khu vực chuyển đổi cơ cấu cây trồng cũng được trồng tập trung một loại cây ăn quả, góp phần bảo vệ môi trường sinh thái, nâng cao giá trị kinh tế trong sản xuất nông nghiệp. Chăn nuôi gia súc, gia cầm: Hiện nay, thời tiết đang trong giai đoạn chuyển mùa, nồm ẩm kéo dài gây bất lợi cho sức khỏe đàn gia súc, gia cầm nuôi, tạo điều kiện thuận lợi cho các loại mầm bệnh phát triển, lây lan. Các hộ chăn nuôi cần áp dụng nghiêm ngặt các biện pháp vệ sinh, sát trùng phương tiện ra vào khu vực chăn nuôi, tạo môi trường thoáng sạch; giữ ấm cho đàn gia súc, gia cầm; cung cấp đủ dinh dưỡng và thường xuyên theo dõi để kịp thời phát hiện bệnh. Ước tính tại thời điểm 28/02/2025, số lượng đầu con gia súc, gia cầm trên địa bàn tỉnh như sau: trâu 4.743 con, giảm 4,39% so với cùng kỳ năm 2024; bò 30.445 con, tăng 0,67%; lợn 456.537 con, tăng 1,15%; gia cầm 9.162 nghìn con, tăng 1,29% (trong đó: gà 6.532 nghìn con, tăng 1,98%). b) Thủy sản Diện tích nuôi trồng thủy sản toàn tỉnh ước tính đạt 4.879 ha (Diện tích chưa bao gồm nuôi lồng bè, bể bồn và ươm giống), giảm 4,59%, tương ứng giảm 238 ha. Sản phẩm nuôi trồng chủ yếu vẫn là những giống cá trắm, chày, chép hoặc rô phi và một số giống cá khác như: cá mè, cá trôi,... cho năng suất cao. Sản lượng thuỷ sản nuôi trồng tháng Hai ước đạt 1.668 tấn, tăng 3,35% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: sản lượng cá 1.614 tấn, tăng 3,33%; sản lượng tôm 2,2 tấn (Sản lượng tôm không bao gồm tôm thẻ chân trắng do chưa đến thời kỳ thu hoạch), tăng 4,76%; sản lượng thuỷ sản nuôi trồng khác ước đạt 52 tấn, tăng 4,0%. Ngành khai thác thủy sản trên địa bàn tỉnh Hưng Yên tiếp tục có xu hướng giảm dần về sản lượng và số hộ khai thác do nguồn lợi thủy sản cạn kiệt dần, nguồn nước trên các sông nhỏ, ao, hồ bị ảnh hưởng ô nhiễm môi trường làm các loại thủy sản không sinh trưởng và phát triển được.

Tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Hưng Yên tháng Một năm 2025
  •   07/02/2025 07:36

1. Nông nghiệp và thủy sản    Tháng Một năm 2025, nông dân trong tỉnh đang tập trung phòng trừ sâu bệnh và thu hoạch các loại cây rau màu vụ đông; làm đất phục vụ sản xuất vụ xuân; đồng thời bảo vệ an toàn đàn gia súc, gia cầm chuẩn bị cho Tết Nguyên đán Ất Tỵ 2025. Đến thời điểm này, hoạt động sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản toàn tỉnh cơ bản ổn định, cụ thể như sau:                a) Nông nghiệpCây hằng năm: Theo kết quả sơ bộ điều tra diện tích vụ đông năm 2024-2025, tổng diện tích gieo trồng toàn tỉnh đạt 6.753 ha, giảm 0,62%, tương ứng giảm 42,5 ha so với vụ đông năm trước. Cụ thể: ngô 1.307 ha, tăng 0,99% (tăng 13 ha); khoai lang 148 ha, tăng 12,06% (tăng 16 ha); đậu tương 147 ha, giảm 26,17% (giảm 52 ha); rau các loại 4.093 ha, tăng 0,64% (tăng 27 ha); đậu, đỗ các loại 70 ha, tăng 11,0% (tăng 7 ha); hoa các loại 335 ha, giảm 5,23% (giảm 19 ha); cây hàng năm khác 441 ha, tăng 0,15% (tăng 1 ha). Thời tiết cuối năm 2024 cơ bản thuận lợi cho gieo trồng cây vụ đông. Tuy nhiên, nửa đầu tháng 9/2024, do ảnh hưởng của cơn bão số 3 (bão Yagi) và mưa, lũ sau bão đã gây ngập úng cục bộ một số diện tích trồng cây vụ đông sớm của tỉnh, đồng thời làm ảnh hưởng đến tiến độ trồng cây vụ đông, nhất là cây vụ đông ưa ấm.Theo báo cáo tiến độ sản xuất nông nghiệp của ngành chuyên môn, đến ngày 30/01/2025, tổng diện tích thu hoạch cây rau màu vụ đông toàn tỉnh đạt 5.938 ha. Hiện nay, các địa phương tiếp tục chăm sóc, bảo vệ những diện tích trồng cây vụ đông chưa thu hoạch theo quy trình kỹ thuật của từng loại cây để bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm; khoanh vùng bảo vệ diện tích chuyên màu, diện tích chuyển đổi để tránh bị ngập nước do đổ ải.Cùng với việc gieo trồng, chăm sóc và thu hoạch cây vụ đông, thời gian qua, các địa phương trong tỉnh đã tích cực chuẩn bị kế hoạch gieo trồng vụ xuân năm 2025. Vụ xuân năm 2025, toàn tỉnh phấn đấu gieo cấy 23.600 ha lúa đông xuân. Các địa phương cần thực hiện nghiêm cơ cấu giống, lịch thời vụ gieo cấy và kế hoạch sản xuất vụ Xuân 2025; thực hiện che phủ 100% diện tích mạ xuân để phòng chống rét cho mạ; tuyệt đối không được gieo, cấy lúa khi có dự báo rét đậm rét hại nhiệt độ xuống dưới 15oC. Đến ngày 30/01/2025, toàn tỉnh làm đất lần 1 đạt 14.309 ha; làm đất lần 2 đạt 2.790 ha; diện tích ngả dược mạ 635 ha; diện tích gieo mạ dày xúc 456 ha; diện tích trồng rau màu vụ xuân 448 ha. Theo kế hoạch đổ ải của tỉnh, lịch lấy nước đổ ải được chia làm 2 đợt: đợt 1 từ 12/01/2025-16/01/2025; đợt 2 từ 08/02/2025-14/02/2025.Cây lâu năm: Năm 2024, sơ bộ tổng diện tích hiện có các loại cây lâu năm đạt 15.866 ha, giảm 0,23%, tương ứng giảm 37 ha so với cùng kỳ năm trước. Sản xuất cây lâu năm của tỉnh Hưng Yên chịu ảnh hưởng của cơn bão số 3 và mưa, lũ sau bão gây ngập, úng vào nửa đầu tháng 9 đã làm gẫy, đổ, thối, rụng quả một số cây ăn quả như: chuối, cam, bưởi, đu đủ, táo, cây cảnh,.... Một số xã trồng cây cảnh trên địa bàn huyện Văn Giang bị ngập sâu làm ảnh hưởng đến sản lượng thu hoạch cây cảnh cho dịp Tết Nguyên đán Ất Tỵ 2025.Chăn nuôi: Hoạt động chăn nuôi trên địa bàn tỉnh phát triển ổn định, không xuất hiện dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm. Để bảo đảm chất lượng gia súc, gia cầm xuất bán trong dịp Tết và phát triển hoạt động chăn nuôi gia súc trong năm mới, ngành chức năng khuyến cáo người chăn nuôi không chủ quan, lơ là trước diễn biến của dịch bệnh. Các hộ chăn nuôi cần áp dụng nghiêm ngặt các biện pháp vệ sinh, sát trùng phương tiện ra vào khu vực chăn nuôi; tạo môi trường thoáng sạch; giữ ấm cho đàn gia súc, gia cầm; bảo đảm dinh dưỡng và thường xuyên theo dõi sức khoẻ đàn gia súc, gia cầm để kịp thời phát hiện bệnh. Người chăn nuôi cũng cần nêu cao trách nhiệm, thông báo ngay với cán bộ thú y khi phát hiện bệnh để có biện pháp xử lý kịp thời, bằng mọi biện pháp giữ gìn đàn gia súc, gia cầm để phục vụ nhân dân trong dịp Tết Nguyên đán Ất Tỵ 2025.Ước tính tại thời điểm cuối tháng Một (31/01/2025), số lượng đầu con gia súc, gia cầm toàn tỉnh như sau: trâu 4.782 con, giảm 3,49% so với cùng kỳ năm 2024; bò 30.567 con, tăng 0,70%; lợn 513.226 con, giảm 0,52%; gia cầm 9.011 nghìn con, giảm 1,24% (trong đó: gà 6.485 nghìn con, giảm 1,67%). Sản lượng thịt hơi xuất chuồng tháng Một dự báo sẽ tăng mạnh để bảo đảm nguồn cung phục vụ dịp Tết Nguyên đán Ất Tỵ.b) Thủy sảnDiện tích nuôi trồng thủy sản toàn tỉnh ước tính đạt 4.856 ha (Diện tích chưa bao gồm nuôi lồng bè, bể bồn và ươm giống), giảm 5,04%, tương ứng giảm 258 ha so với cùng kỳ năm trước. Sản phẩm nuôi trồng chủ yếu vẫn là những giống cá trắm, chày, chép hoặc rô phi và một số giống cá khác như: cá mè, cá trôi,... cho năng suất cao. Sản lượng thuỷ sản nuôi trồng tháng Một ước đạt 1.683 tấn, tăng 3,29%. Trong đó: sản lượng cá 1.614 tấn, tăng 3,33%; tôm 2 tấn, giảm 2,50% (Sản lượng tôm không bao gồm tôm thẻ chân trắng do chưa đến thời kỳ thu hoạch); thuỷ sản nuôi trồng khác ước đạt 67 tấn, tăng 2,46%.Ngành khai thác thủy sản trên địa bàn tỉnh Hưng Yên ngày càng giảm dần về sản lượng và số hộ khai thác do nguồn lợi thủy sản cạn kiệt dần, nguồn nước trên các sông nhỏ, ao, hồ bị ảnh hưởng ô nhiễm môi trường làm các loại thủy sản không sinh trưởng và phát triển được.2. Sản xuất công nghiệpSo với tháng trước, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) tháng Một giảm 9,05% do Tết Nguyên đán diễn ra vào tháng Một, số ngày nghỉ Tết kéo dài. Trong đó: công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 9,13%; sản xuất và phân phối điện tăng 0,06%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 11,25%. Các sản phẩm có sản lượng sản xuất giảm so với tháng trước là: mỳ, phở, miến, bún, cháo ăn liền giảm 20,57%; thức ăn cho gia súc giảm 18,23%; thức ăn cho gia cầm giảm 4,39%; nước khoáng không có ga giảm 4,01%; quần áo các loại giảm 3,20%; giầy, dép khác chưa được phân vào đâu giảm 11,11%; gỗ ốp, lát công nghiệp giảm 23,92%; thùng, hộp bằng giấy nhăn và bìa nhăn giảm 29,74%; sơn và véc ni tan trong môi trường nước giảm 40,09%; sản phẩm bằng plastic giảm 9,96%; sản phẩm vệ sinh gắn cố định bằng gốm sứ giảm 0,91%; sắt, thép không hợp kim dạng thỏi đúc hoặc dạng thô khác giảm 10,0%; thép hợp kim khác dạng thỏi đúc hoặc dạng thô khác giảm 18,97%; thanh, que sắt, thép không hợp kim được cán nóng, dạng cuộn cuốn không đều giảm 17,0%; ống dẫn bằng sắt, thép không nối, dùng để dẫn dầu hoặc khí giảm 29,29%; dây cách điện đơn bằng đồng giảm 23,74%;... Bên cạnh đó, cũng có các sản phẩm có sản lượng sản xuất tăng so với tháng trước như: rượu Vodka và rượu Cô nhắc tăng 2,04%; áo bó, áo chui đầu, áo cài khuy, gi-lê và các mặt hàng tương tự dệt kim hoặc móc tăng 94,17%; thùng, hộp bằng bìa cứng (trừ bìa nhăn) tăng 1,45%; thanh, que thép không gỉ khác tăng 10,0%; máy phát điện xoay chiều (máy giao điện) tăng 8,98%;...So với tháng cùng kỳ năm trước, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tháng Một tăng 9,62%, cụ thể: công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 9,24%; sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 8,62%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải có chỉ số sản xuất tăng 21,85%. Một số sản phẩm công nghiệp trong tháng có sản lượng sản xuất tăng so với cùng kỳ năm trước như: nước khoáng không có ga tăng 4,85%; quần áo các loại tăng 6,97%; giày, dép khác chưa được phân vào đâu tăng 61,25%; thùng, hộp bằng bìa cứng (trừ bìa nhăn) tăng 27,83%; sơn và véc ni tan trong môi trường nước tăng 302,52%; gạch xây dựng bằng đất sét nung (trừ gốm, sứ) quy chuẩn 220x105x60mm tăng 11,42%; sản phẩm vệ sinh gắn cố định bằng gốm sứ tăng 129,54%; thanh, que thép không gỉ khác tăng 10,0%; mạch in khác tăng 33,47%; đĩa dùng cho hệ thống đọc bằng laser chưa ghi tăng 30,35%; máy giặt loại dùng cho hiệu giặt là quần áo với sức chứa > 10 kg vải khô tăng 8,21%; phụ tùng khác của xe có động cơ tăng 4,70%;... Bên cạnh đó, các sản phẩm có sản lượng sản xuất giảm với cùng kỳ năm trước như: mỳ, phở, miến, bún, cháo ăn liền giảm 31,50%; thức ăn cho gia súc giảm 8,26%; thức ăn cho gia cầm giảm 12,89%; rượu Vodka và rượu Cô nhắc giảm 4,32%; gỗ ốp, lát công nghiệp giảm 3,90%; thùng, hộp bằng giấy nhăn và bìa nhăn giảm 10,47%; sản phẩm bằng plastic giảm 8,19%; sắt, thép không hợp kim dạng thỏi đúc hoặc dạng thô khác giảm 6,61%; thép hợp kim khác dạng thỏi đúc hoặc dạng thô khác giảm 22,41%; góc, khuôn, hình bằng sắt, thép đã được hàn giảm 13,64%; ống dẫn bằng sắt, thép không nối, dùng để dẫn dầu hoặc khí giảm 17,45%; mạch điện tử tích hợp giảm 34,34%; động cơ đa năng một chiều/xoay chiều có công suất >37.5 W giảm 4,28%; dây cách điện đơn bằng đồng giảm 23,30%; dây cách điện đơn dạng cuộn khác giảm 30,80%;...3. Hoạt động đầu tưa) Vốn đầu tư ngân sách nhà nước do địa phương quản lýTổng vốn đầu tư thực hiện tháng Một năm 2025 ước đạt 1.594 tỷ đồng, tăng 70,12%, tương ứng tăng 657 tỷ đồng so với cùng kỳ năm trước và đạt 5,53% vốn kế hoạch năm. Trong đó: vốn ngân sách cấp tỉnh 1.050 tỷ đồng, tăng 98,09%; vốn ngân sách nhà nước cấp huyện 344 tỷ đồng, tăng 41,84%; vốn ngân sách nhà nước cấp xã 200 tỷ đồng, tăng 21,73%.b) Hoạt động đầu tư nước ngoàiTính đến ngày 24/01/2025, toàn tỉnh có lũy kế 620 dự án có vốn đầu tư nước ngoài đăng ký hoạt động, với tổng số vốn đăng ký là 8.543.316 nghìn USD. Trong đó, tháng Một năm 2025 có 07 dự án đăng ký mới với số vốn đăng ký 572.960 nghìn USD. Các quốc gia có số dự án, vốn đầu tư chủ yếu là: thứ nhất là Nhật Bản có 178 dự án, vốn đăng ký là 3.886.234 nghìn USD, chiếm 45,49% tổng vốn đăng ký; thứ hai là Hàn Quốc có 161 dự án, vốn đăng ký 1.457.521 nghìn USD, chiếm 17,06% tổng vốn đăng ký; thứ ba là Trung Quốc có 176 dự án, vốn đăng ký 1.349.309 nghìn USD, chiếm 15,79% tổng số vốn đăng ký.c) Thu hút đầu tư và phát triển doanh nghiệpTính từ ngày 22/12/2024 đến ngày 21/01/2025, số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới đạt 178 doanh nghiệp với vốn đầu tư đăng ký 2.766 tỷ đồng. Các doanh nghiệp thành lập mới hoạt động trong lĩnh vực: công nghiệp chế biến, chế tạo 47 doanh nghiệp, vốn đăng ký 1.113 tỷ đồng; bán buôn; bán lẻ; sửa chữa ô tô, xe máy 69 doanh nghiệp, vốn đăng ký 375 tỷ đồng; xây dựng 15 doanh nghiệp, vốn đăng ký 61 tỷ đồng; kinh doanh bất động sản 5 doanh nghiệp, vốn đăng ký 1.034 tỷ đồng; hoạt động chuyên môn, khoa học và công nghệ 10 doanh nghiệp, vốn đăng ký 26 tỷ đồng;...Số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động trong tháng Một (tính từ ngày 22/12/2024 đến ngày 21/01/2025) là 98 doanh nghiệp. Trong đó ngành sản xuất kinh doanh quay trở lại hoạt động nhiều nhất là bán buôn; bán lẻ; sửa chữa ô tô, xe máy với 32 doanh nghiệp, tiếp đó là các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo 26 doanh nghiệp; hoạt động hành chính và dịch vụ hỗ trợ 11 doanh nghiệp; xây dựng 10 doanh nghiệp;...Số doanh nghiệp giải thể trong tháng Một (tính từ ngày 22/12/2024 đến ngày 21/01/2025) là 25 doanh nghiệp, doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh là 433 doanh nghiệp. Trong đó: ngành công nghiệp chế biến, chế tạo có 09 doanh nghiệp giải thể và 104 doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động; ngành bán buôn, bán lẻ có 07 doanh nghiệp giải thể và 160 doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động; dịch vụ lưu trú và ăn uống có 02 doanh nghiệp giải thể và 11 doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động; hoạt động hành chính và dịch vụ hỗ trợ có 02 doanh nghiệp giải thể và 26 doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động; xây dựng có 01 doanh nghiệp giải thể và 36 doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động;...4. Thương mại, dịch vụ Tết Nguyên đán Ất Tỵ 2025 diễn ra vào tháng Một nên nhu cầu tiêu dùng tăng cao, tập trung ở một số mặt hàng thiết yếu phục vụ Tết. Nhìn chung, tình hình sản xuất kinh doanh lĩnh vực thương mại, dịch vụ trên địa bàn tỉnh Hưng Yên ổn định và phát triển, không xảy ra tình trạng thiếu hàng, sốt giá. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tháng Một ước đạt 11.635 tỷ đồng, giảm 13,44% so với tháng trước và tăng 35,37% so với cùng kỳ năm trước. Cụ thể như sau:Doanh thu bán lẻ hàng hóa tháng Một ước đạt 3.074 tỷ đồng, tăng 2,62% so với tháng trước và tăng 10,95% so với cùng kỳ năm trước. Doanh thu bán lẻ hàng hóa tăng so với tháng trước chủ yếu ở các nhóm ngành hàng sau: Lương thực, thực phẩm tăng 6,16%; hàng may mặc tăng 10,54%; đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình tăng 5,70%; vật phẩm, văn hóa, giáo dục tăng 10,11%; nhóm hàng phương tiện đi lại, trừ tô con (kể cả phụ tùng) tăng 0,02%; xăng, dầu các loại tăng 1,44%; đá quý, kim loại quý và sản phẩm tăng 3,05%; hàng hóa khác tăng 5,89%;... Bên cạnh nhóm hàng có doanh thu bán lẻ tăng thì hai nhóm hàng có doanh thu bán lẻ giảm so với tháng trước do nhu cầu tiêu dùng của người dân giảm là: gỗ và vật liệu xây dựng giảm 4,92%; ô tô con (dưới 9 chỗ ngồi) giảm 60,42%.Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống tháng Một ước đạt 308 tỷ đồng, tăng 4,08% so với tháng trước và tăng 21,42% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: doanh thu dịch vụ lưu trú 11 tỷ đồng, giảm 9,99% so với tháng trước và tăng 17,13% so với cùng kỳ năm trước; doanh thu dịch vụ ăn uống 297 tỷ đồng tăng 4,71% so với tháng trước và tăng 21,59% so với cùng kỳ năm trước.Doanh thu dịch vụ du lịch và lữ hành tháng Một ước đạt 2,5 tỷ đồng, giảm 21,56% so với tháng trước và giảm 35,57% so với cùng kỳ năm trước. Tháng Một, người dân tập trung chuẩn bị cho dịp Tết Nguyên đán Ất Tỵ cổ truyền nên nhu cầu đi du lịch giảm so với thời gian trước.Doanh thu dịch vụ khác tháng Một ước đạt 8.250 tỷ đồng, giảm 18,69% so với tháng trước và tăng 48,21% so cùng kỳ năm 2024. Chi tiết một số ngành như sau: dịch vụ kinh doanh bất động sản doanh thu ước đạt 7.690 tỷ đồng, giảm 19,57% so với tháng trước và tăng 52,52% so với cùng kỳ năm trước; dịch vụ hành chính và dịch vụ hỗ trợ 229 tỷ đồng, giảm 5,80% so với tháng trước và tăng 5,38% so với cùng kỳ năm trước; dịch vụ giáo dục và đào tạo 127 tỷ đồng, giảm 7,43% so với tháng trước và tăng 4,50% so với cùng kỳ năm trước; dịch vụ y tế và hoạt động trợ giúp xã hội 58 tỷ đồng, giảm 10,57% so với tháng trước và tăng 2,86% so với cùng kỳ năm trước; dịch vụ nghệ thuật, vui chơi và giải trí, dịch vụ khác 20 tỷ đồng, giảm 6,09% so với tháng trước và tăng 61,37% so với cùng kỳ năm trước; dịch vụ khác 127 tỷ đồng, tăng 5,20% so với tháng trước và tăng 8,17% so với cùng kỳ năm trước.5. Chỉ số giá a) Chỉ số giá tiêu dùngSo với tháng trước, chỉ số giá tiêu dùng tháng Một năm 2025 tăng 1,58%. Trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ, có 09 nhóm có chỉ số giá tăng là: hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,65%; đồ uống và thuốc lá tăng 0,81%; may mặc, giày dép, mũ nón tăng 0,95%; nhà ở, điện, nước, chất đốt và VLXD tăng 0,05%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,11%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 12,35%; giao thông tăng 1,10%; bưu chính, viễn thông tăng 0,07%; hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,42%. Duy nhất nhóm hàng hóa, dịch vụ có chỉ số giá giảm so với tháng trước là nhóm văn hóa, giải trí và du lịch - giảm 0,09%. Riêng nhóm dịch vụ giáo dục có chỉ số giá ổn định so với tháng trước.So với tháng cùng kỳ năm trước, chỉ số giá tiêu dùng tháng Một tăng 5,04%. Trong đó, nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 5,36% (lương thực tăng 6,70%; thực phẩm tăng 5,87%; ăn uống ngoài gia đình tăng 0,89%); đồ uống và thuốc lá tăng 1,66%; hàng may mặc, mũ nón, giày, dép tăng 5,30%; nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 9,29%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 1,26%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 12,53%; dịch vụ giao thông giảm 1,16%; dịch vụ bưu chính, viễn thông giảm 0,22%; giáo dục giảm 1,31%; văn hóa, giải trí và du lịch tăng 1,83%; hàng hóa và dịch vụ khác tăng 7,77%.b) Chỉ số giá vàng và đô la MỹThị trường vàng tại tỉnh Hưng Yên tháng 01/2025 có chỉ số giá tăng 2,49% so với tháng trước do thời gian qua lãi suất liên tục giảm, đầu tư khó khăn, dòng tiền có xu hướng chảy sang kim loại quý là vàng. Tâm lý “mua vàng còn giữ được giá” khiến nhiều người ưu tiên tích trữ vàng. Hiện, giá vàng đang ở mức giá cao nhất trong mấy tháng trở lại gần đây. Bình quân tháng 01/2025, giá vàng xấp xỉ 8.517.500 VNĐ/01 chỉ.Ảnh hưởng từ thị trường đồng đô la Mỹ trên thế giới, tại địa bàn tỉnh Hưng Yên, giá đồng đô la Mỹ trong tháng 01/2025 tăng 0,21% so với tháng trước. Bình quân tháng 01/2025, tỷ giá 1 USD xấp xỉ 25.538 VNĐ.6. Hoạt động vận tảiDoanh thu hoạt động vận tải, kho bãi tháng Một ước đạt 651 tỷ đồng, giảm 3,82% so với tháng trước và tăng 11,14% so với cùng kỳ năm trước.a) Hoạt động vận tải hành kháchDoanh thu vận tải hành khách toàn tỉnh tháng Một ước đạt 89 tỷ đồng, tăng 4,39% so với tháng trước và tăng 11,01% so với cùng kỳ năm trước. Tổng số hành khách vận chuyển và luân chuyển toàn tỉnh ước đạt 2.490 nghìn người và 106.802 nghìn người.km, tương ứng tăng 1,67% và 1,75% so cùng kỳ.b) Hoạt động vận tải hàng hóaDoanh thu vận tải hàng hóa tháng Một ước đạt 480 tỷ đồng, giảm 4,89% so với tháng trước và tăng 13,25% so cùng kỳ năm trước; khối lượng hàng hóa vận chuyển và luân chuyển ước đạt 1.498 nghìn tấn và 224.016 nghìn tấn.km, tương ứng tăng 5,63% và 13,55% so với cùng kỳ năm trước.c) Kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải và bưu chính, chuyển phátDoanh thu kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải tháng Một ước đạt 63 tỷ đồng, giảm 5,11% so với tháng trước và tăng 1,85% so với cùng kỳ năm trước. Doanh thu bưu chính, chuyển phát tháng Một ước đạt 19 tỷ đồng, giảm 7,14% so với tháng trước và giảm 4,27% so với cùng kỳ năm trước.7. Hoạt động tài chính, ngân hànga) Thu ngân sách nhà nướcThu ngân sách nhà nước tháng Một ước đạt 5.664 tỷ đồng, giảm 28 tỷ đồng, tương ứng giảm 0,49% so với cùng kỳ năm trước và đạt 12,61% kế hoạch năm. Trong đó: thu nội địa 5.336 tỷ đồng, giảm 2,01%; thu hải quan 328 tỷ đồng, tăng 33,20% so với cùng kỳ năm trước. Một số khoản thu trong tháng dự tính như sau: thu từ doanh nghiệp nhà nước 29 tỷ đồng, giảm 9,27%; thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 707 tỷ đồng, tăng 12,94%; thu từ khu vực ngoài quốc doanh 3.333 tỷ đồng, giảm 7,0%; thuế thu nhập cá nhân 235 tỷ đồng, tăng 33,87%; thu phí, lệ phí 102 tỷ đồng, tăng 34,57%; các khoản thu về đất 877 tỷ đồng, tăng 6,47%.b) Chi ngân sách nhà nước địa phươngChi ngân sách nhà nước địa phương tháng Một ước đạt 1.599 tỷ đồng, tăng 475 tỷ đồng, tương ứng tăng 42,29% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: chi đầu tư phát triển 761 tỷ đồng, tăng 65,08%; chi thường xuyên 838 tỷ đồng, tăng 26,43%. Một số lĩnh vực chi thường xuyên trong tháng như sau: chi sự nghiệp kinh tế 21 tỷ đồng, tăng 19,09%; chi giáo dục, đào tạo 292 tỷ đồng, tăng 36,93%; chi sự nghiệp y tế 41 tỷ đồng, tăng 29,06%; chi sự nghiệp khoa học và công nghệ 0,16 tỷ đồng, giảm 20,81%; chi sự nghiệp văn hóa, thể dục thể thao 10 tỷ đồng, tăng 38,96%; chi đảm bảo xã hội 122 tỷ đồng, tăng 34,47%; chi quản lý hành chính 290 tỷ đồng, tăng 36,72%; chi thường xuyên khác 60 tỷ đồng, giảm 31,89%.c) Hoạt động ngân hàngƯớc tính tại thời điểm 31/01/2025, tổng nguồn vốn của các tổ chức tín dụng đạt 155.033 tỷ đồng, giảm 0,22% so với thời điểm 31/12/2024. Trong đó: nguồn vốn huy động trong dân cư và các tổ chức kinh tế đạt 145.490 tỷ đồng, giảm 0,23% và chiếm 93,84% tổng nguồn vốn.Tổng dư nợ đối với nền kinh tế đạt 115.446 tỷ đồng, giảm 0,31% so với thời điểm 31/12/2024. Trong đó: dư nợ cho vay ngắn hạn 83.669 tỷ đồng, giảm 0,59%; dư nợ cho vay trung và dài hạn 31.777 tỷ đồng, tăng 0,45%. Dư nợ cho vay bằng nội tệ 111.918 tỷ đồng, giảm 0,17%; dư nợ cho vay bằng ngoại tệ 3.528 tỷ đồng, giảm 4,41%. Về chất lượng tín dụng: nợ xấu (nhóm 3,4,5) là 1.271 tỷ đồng (chiếm 1,10% tổng dư nợ), tăng 2,93% so với thời điểm 31/12/2024.8. Một số hoạt động xã hội a) Hoạt động văn hóa, thể thaoToàn tỉnh tổ chức tốt các hoạt động tuyên truyền cổ động tiến tới kỷ niệm 95 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (03/02/1930 - 03/02/2025) và nhiều hoạt động mừng Xuân Ất Tỵ năm 2025. Mừng xuân mới, tỉnh tổ chức bắn pháo hoa nổ tầm thấp tại 11 địa điểm trên các huyện, thành phố, thị xã trên toàn tỉnh: Nhà văn hóa tại các huyện Ân Thi, Kim Động, Yên Mỹ; Trung tâm các huyện (Tiên Lữ, Văn Lâm, Phù Cừ); thị xã Mỹ Hào, Khu nhà ở (huyện Khoái Châu, huyện Văn Giang); Công ty TNHH Đầu tư phát triển Nông nghiệp Vũ Hưng (Kim Động); Quảng trường Nguyễn Văn Linh (TP Hưng Yên).Bảo tàng tỉnh tổ chức trưng bày cố định tại Bảo tàng tỉnh phần II “Hưng Yên từ khi có Đảng đến nay”; phối hợp với Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam dàn dựng trưng bày “Tranh dân gian Việt Nam” và “Chợ Tết Việt” mừng Xuân Ất Tỵ 2025.Thư viện tỉnh tổ chức tuyên truyền, giới thiệu sách báo, tài liệu theo chủ đề chào mừng các ngày lễ của đất nước và địa phương, như: Kỷ niệm 80 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam; 35 năm Ngày hội Quốc phòng toàn dân; giới thiệu sách về Đại danh y Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác; biên soạn và phát hành 01 thư mục bài trích báo, tạp chí có nội dung về kinh tế, văn hóa, giáo dục,... của tỉnh Hưng Yên; phối hợp, trao đổi Báo Xuân Ất Tỵ 2025 với thư viện các tỉnh, thành phố.Nghệ thuật biểu diễn: Nhà hát Chèo đã biểu diễn chương trình nghệ thuật chào mừng Đại hội Đảng bộ xã Long Hưng, huyện Văn Giang. Dàn dựng, tập luyện chuẩn bị biểu diễn chương trình nghệ thuật tại buổi Khai mạc trưng bày “Tranh dân gian Việt Nam và chợ Tết Việt”; chương trình nghệ thuật chào mừng 95 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và mừng Xuân Ất Tỵ 2025.Trung tâm Văn hóa - Điện ảnh tỉnh tổ chức 68 buổi chiếu phim (10 buổi lưu động, 55 buổi tại rạp) phục vụ nhiệm vụ chính trị và nhu cầu hưởng thụ văn hóa, giải trí của nhân dân.Thể dục, thể thao quần chúng:ban hành kế hoạch thi đấu các giải thể thao quần chúng năm 2025; chỉ đạo, hướng dẫn tổ chức các hoạt động thể dục, thể thao mừng Đảng, mừng Xuân. Đơn vị chuyên môn tiếp tục phối hợp với các ngành, các cấp phát triển phong trào thể dục thể thao nâng cao sức khỏe nhân dân. Ban hành Điều lệ giải bóng bàn cán bộ lãnh đạo quản lý và vô địch các nhóm tuổi tỉnh năm 2025; Điều lệ giải Cầu lông cán bộ lãnh đạo quản lý và vô địch các nhóm tuổi tỉnh năm 2025.Thể thao thành tích cao: Xây dựng, triển khai kế hoạch đào tạo, huấn luyện, thi đấu năm 2025; đánh giá, thải loại, tuyển mới vận động viên bảo đảm sĩ số; tổ chức đào tào, huấn luyện, chuẩn bị lực lượng vận động viên các môn sẵn sàng tham gia thi đấu các giải thể thao quốc gia năm 2025; xây dựng lực lượng vận động viên tham dự Đại hội thể thao toàn quốc lần thứ X năm 2026.b) Chăm lo các đối tượng chính sách và người có côngNhân dịp Tết Nguyên đán Ất Tỵ năm 2025, Chủ tịch nước và Tỉnh ủy-HĐND-UBND-UBMTTQ Việt Nam tỉnh thăm, tặng quà cho các đối tượng là người có công với cách mạng, gia đình chính sách và hỗ trợ đối tượng xã hội, cụ thể như sau:Quà của Chủ tịch nước: Thực hiện theo Quyết định số 1301QĐ-CTN ngày 27/11/2024 của Chủ tịch nước về việc tặng quà cho các đối tượng người có công với cách mạng nhân dịp Tết Nguyên đán Ất Tỵ năm 2025; Công văn số 6402/LĐTBXH-CNCC ngày 16/12/2024 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội về việc hướng dẫn tặng quà của Chủ tịch nước nhân dịp Tết Nguyên đán Ất Tỵ năm 2025.Quà của Tỉnh ủy-HĐND-UBND-UBMTTQ Việt Nam tỉnh: Người có công (gia đình liệt sỹ; thương binh; bệnh binh; anh hùng lực lượng vũ trang, anh hùng lao động trong kháng chiến; người có công giúp đỡ cách mạng; người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hoá học; người hoạt động kháng chiến bị địch bắt tù đày); gia đình quân nhân làm nhiệm vụ tại quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa, Nhà giàn DK1 là 32.876 suất quà (32.776 suất quà tặng các đối tượng và 100 suất quà dự phòng), mỗi suất quà trị giá 900.000 đồng, gồm 500.000 đồng tiền mặt và 1 túi quà bằng hiện vật trị giá 400.000 đồng.Thăm, tặng quà 04 trung tâm điều dưỡng thương, bệnh binh và người có công quê Hưng Yên đang được nuôi dưỡng tại các trung tâm trong và ngoài tỉnh, mỗi trung tâm 01 suất quà trị giá 3.000.000 đồng tiền mặt; tặng 19 người có công quê Hưng Yên đang điều dưỡng tại 04 trung tâm, mỗi đối tượng 01 suất quà trị giá 1.500.000 đồng tiền mặt.Thăm, tặng quà 22 gia đình người có công (mỗi huyện, thị xã, thành phố 02 gia đình, riêng huyện Khoái Châu 03 gia đình, huyện Ân Thi 03 gia đình), mỗi gia đình 01 suất quà trị giá 1.500.000 đồng, gồm 1.000.000 đồng tiền mặt và 01 túi quà bằng hiện vật trị giá 500.000 đồng.Tặng quà chúc thọ cho 38.523 người cao tuổi ở các mốc tuổi 70, 75, 80, 85, 90, 95, các cụ ở tuổi 91 đến 94, tuổi 96 đến 99, tròn 100, trên 100 tuổi.Tặng 1.794 suất quà bằng tiền mặt cho các hộ nghèo ở các xã, phường, thị trấn trên địa bàn tỉnh, với mức 500.000 đồng/suất/hộ (trong đó 400.000 đồng/suất/hộ trích từ nguồn ngân sách tỉnh và 100.000 đồng/suất/hộ trích từ Quỹ Vì người nghèo).Tặng 05 suất quà bằng tiền mặt cho các cơ sở trợ giúp xã hội và Cơ sở Điều trị nghiện ma túy, với định mức 3.000.000 đồng/suất quà/cơ sở (Trung tâm Bảo trợ xã hội và công tác xã hội; Trường Phục hồi chức năng và dạy nghề cho người khuyết tật Tiên Lữ; Trường Phục hồi chức năng và dạy nghề cho người khuyết tật Khoái Châu; Trung tâm Hy vọng Tiên Cầu; Cơ sở Điều trị nghiện ma túy). Tặng 10 suất quà bằng tiền mặt cho các đối tượng đang được chăm sóc, nuôi dưỡng tại cơ sở trợ giúp xã hội ngoài công lập hoạt động không vì mục đích lợi nhuận (Trung tâm Hy vọng Tiên Cầu) với định mức 500.000 đồng/người.Trích Quỹ Bảo trợ trẻ em tỉnh tổ chức các hoạt động hỗ trợ, chăm lo cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, khó khăn. Cụ thể: trao bảo trợ cho 100 trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, khó khăn (mỗi huyện, thị xã, thành phố 10 trẻ em) với mức 1.000.000 đồng/trẻ em; tặng quà cho 350 trẻ em có hoàn cảnh khó khăn với mức hỗ trợ 500.000 đồng/trẻ em (gồm 300.000 đồng tiền mặt và 200.000 đồng tiền quà).c) Hoạt động y tếAn toàn vệ sinh thực phẩm: Ban Chỉ đạo liên ngành về vệ sinh ATTP tỉnh đã triển khai công tác bảo đảm ATTP, tăng cường kiểm tra vệ sinh ATTP tại các chợ đầu mối, chợ truyền thống, siêu thị dịp Tết Nguyên đán Ất Tỵ 2025; xử lý việc sản xuất, kinh doanh thực phẩm giả, thực phẩm kém chất lượng, phòng chống ngộ độc thực phẩm nhằm bảo đảm an toàn thực phẩm trong sản xuất, chế biến, kinh doanh, nhập khẩu và sử dụng thực phẩm. Tính đến nay, trên địa bàn tỉnh chưa xảy ra vụ ngộ độc thực phẩm trong dịp Tết Nguyên đán Ất Tỵ 2025.Phòng chống dịch bệnh: Ngành Y tế đã phối hợp với các ngành chức năng tăng cường các biện pháp phòng, chống dịch bệnh ở người. Chỉ đạo các cơ sở y tế chuẩn bị đầy đủ nguồn nhân lực, thuốc chữa bệnh, bảo đảm phục vụ kịp thời, chu đáo cho bệnh nhân trong dịp Tết. Các đơn vị Y tế tổ chức trực Tết, đón tiếp, điều trị, chăm sóc chu đáo bệnh nhân; chuẩn bị đầy đủ cơ số thuốc, vật tư, hoá chất, trang thiết bị, phương tiện sẵn sàng phục vụ người bệnh và ứng phó kịp thời các tình huống xảy ra. Tỉnh Hưng Yên đẩy mạnh công tác tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng về các biện pháp phòng, chống dịch bệnh trong dịp Tết và mùa lễ hội; các biện pháp phòng, chống các bệnh dịch lây truyền qua đường hô hấp như bệnh sởi, cúm ở người, các bệnh dịch lây truyền qua đường tiêu hóa; thực hiện vệ sinh cá nhân, bảo đảm an toàn thực phẩm và lợi ích của tiêm vắc xin phòng bệnh. Dịp Tết, không có dịch bệnh xảy ra trên địa bàn tỉnh.d) Bảo vệ môi trường và phòng chống cháy, nổTừ ngày 16/12/2024 đến ngày 15/01/2025, trên địa bàn tỉnh Hưng Yên đã phát hiện 15 vụ vi phạm môi trường (07 vụ về an toàn thực phẩm, 02 vụ về khai thác khoáng sản, 06 vụ về xả thải vượt quá tiêu chuẩn, quy chuẩn ra môi trường), đã xử lý 09 vụ với số tiền xử phạt 80 triệu đồng. So với cùng kỳ năm 2024, số vụ vi phạm tăng 9 vụ, tương ứng tăng 150,0%; số vụ đã xử lý tăng 3 vụ, tương đương tăng 50,0%; số tiền xử phạt tăng 20 triệu, tương ứng tăng 33,33%.Từ ngày 15/12/2024 đến ngày 14/01/2025, trên địa bàn tỉnh Hưng Yên đã xảy ra 03 vụ cháy tại huyện Văn Lâm (02 vụ) và thị xã Mỹ Hào (01 vụ), đang thống kê giá trị thiệt hại, trong đó: 01 vụ cháy nhà ở kết hợp kinh doanh; 02 vụ cháy kho, cơ sở sản xuất, chế biến kinh doanh khác.e) An toàn giao thông     Theo số liệu của Ban An toàn giao thông tỉnh Hưng Yên, từ ngày 15/12/2024 đến 14/01/2025, toàn tỉnh xảy ra 27 vụ tai nạn giao thông (trong đó có 26 vụ tai nạn đường bộ và 01 vụ tai nạn đường thủy nội địa), làm chết 16 người, làm bị thương 12 người. So với tháng 12/2024, số vụ tai nạn giảm 14 vụ, giảm 34,15%; số người chết giảm 02 người, giảm 11,11%; số người bị thương giảm 13 người, giảm 52,0%. So với cùng kỳ năm 2024, số vụ tai nạn giảm 40 vụ, giảm 59,70%; số người chết giảm 6 người, giảm 27,27%; số người bị thương giảm 60 người, giảm 83,33%./.

Tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Hưng Yên tháng 12 và cả năm 2024
  •   07/02/2025 07:36

Bước vào thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2024 trong điều kiện tình hình thế giới tiếp tục biến động phức tạp, nhanh và khó lường với nhiều rủi ro, bất ổn. Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn diễn ra ngày càng gay gắt, căng thẳng địa chính trị, xung đột quân sự leo thang ở một số quốc gia tác động đến hòa bình, ổn định trên thế giới, làm suy giảm hệ thống thương mại, đầu tư, sản xuất và tiêu dùng. Cùng với đó, thiên tai, thời tiết cực đoan ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống của dân cư và phát triển kinh tế - xã hội của các quốc gia. Trên địa bàn tỉnh Hưng Yên, cơn bão số 3 (bão Yagi) và mưa, lũ sau bão không gây thiệt hại về người, tuy nhiên đã gây thiệt hại về tài sản, đặc biệt ảnh hưởng lớn tới sản xuất nông nghiệp, thủy sản. Trước tình hình đó, Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh đã chỉ đạo các địa phương nhanh chóng khắc phục hậu quả của bão lũ, sớm ổn định đời sống của Nhân dân, đẩy mạnh khôi phục sản xuất kinh doanh, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, tích cực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đồng thời công tác triển khai các dự án trọng điểm, giải phóng mặt bằng, phát triển hạ tầng giao thông, hạ tầng đô thị, hạ tầng thương mại được tập trung chỉ đạo và đạt kết quả tích cực. Do vậy, hầu hết các chỉ tiêu kinh tế - xã hội năm 2024 trên địa bàn tỉnh đều đạt và vượt so với kế hoạch đề ra. Cụ thể như sau: 1. Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh (GRDP) tăng 7,70% (KH tăng 7,5-8,0%); 2. Cơ cấu kinh tế: nông, lâm nghiệp và thủy sản 6,72%; công nghiệp và xây dựng 62,65%; dịch vụ 24,85%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm 5,78%; 3. Tổng sản phẩm bình quân đầu người 121,27 triệu đồng; 4. Tổng vốn đầu tư phát triển đạt 75.200 tỷ đồng, tăng 10,03%; 5. Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) tăng 10,48% (KH tăng 8,50%); 6. Tổng mức bán lẻ hàng hóa, dịch vụ 129.305 tỷ đồng, giảm 4,46%; 7. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân tăng 6,33% so với cùng kỳ năm; 8. Thu ngân sách trên địa bàn tỉnh đạt 40.477 tỷ đồng, tăng 24,75% so với cùng kỳ năm 2023 và đạt 123,32% kế hoạch năm (trong đó: thu nội địa 35.811 tỷ đồng, tăng 24,57% và đạt 122,97% kế hoạch năm); 9. Tỷ lệ hộ nghèo 0,44% (theo chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn 2022-2025). 1. Tăng trưởng kinh tế Với việc triển khai nhiều giải pháp nhằm quyết tâm nhanh chóng khắc phục hậu quả của bão lũ, sớm ổn định đời sống Nhân dân, đẩy mạnh khôi phục sản xuất kinh doanh, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, tích cực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh (GRDP) năm 2024 ước tính tăng 7,70% so với cùng kỳ năm trước (đạt kế hoạch đề ra tăng từ 7,5-8%). Tăng trưởng kinh tế của tỉnh có sự phục hồi nhanh ở quý II và quý III (quý I tăng 6,07%; quý II tăng 8,74%; quý III tăng 8,70%). Tuy nhiên, bước sang quý IV, do chịu ảnh hưởng bởi bão Yagi, đặc biệt là lĩnh vực nông nghiệp, thủy sản nên tăng trưởng kinh tế quý IV của tỉnh chỉ đạt 7,24% so với cùng kỳ năm trước. So với các tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng thì Hưng Yên xếp thứ 7/11 tỉnh, thành phố và xếp thứ 27/63 tỉnh, thành phố của cả nước. Tăng trưởng một số tỉnh trong vùng đồng bằng sông Hồng như sau: Hải Phòng tăng 11,01%; Nam Định tăng 10,01%; Hải Dương tăng 10,20%; Hà Nam tăng 10,93%; Thái Bình tăng 7,01%; Bắc Ninh tăng 6,03%;... Tăng trưởng của từng khu vực cụ thể như sau: Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản gặp nhiều khó khăn do chịu ảnh hưởng của bão Yagi. Ước tính cả năm tăng trưởng khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm 1,63% so với cùng kỳ năm trước (đóng góp âm vào tăng trưởng chung toàn tỉnh, kéo tăng trưởng chung của tỉnh thấp đi 0,13 điểm phần trăm) và không đạt kế hoạch đề ra (KH tăng 2,0%). Sản xuất công nghiệp, xây dựng phục hồi và có mức tăng trưởng khá, đóng góp chủ yếu vào tăng trưởng chung của toàn tỉnh, khu vực công nghiệp, xây dựng ước tăng 11,07%, đóng góp 6,43 điểm phần trăm vào tăng trưởng kinh tế chung của cả tỉnh (tương đương đóng góp tới 83,5% tăng trưởng chung). Năm 2024, sản xuất công nghiệp của tỉnh phục hồi mạnh, một số ngành công nghiệp chủ lực của tỉnh có mức tăng trưởng khá, đóng góp lớn vào tăng trưởng chung của khu vực công nghiệp, xây dựng như: sản xuất sản phẩm từ kim loại; sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học; sản xuất máy móc, thiết bị;... tăng trưởng khu vực công nghiệp đạt 9,99%, đóng góp 5,05 điểm phần trăm vào tăng trưởng chung (tương đương đóng góp 65,6% tăng trưởng chung). Hoạt động xây dựng trên địa bàn tỉnh tiếp tục duy trì đà phát triển mạnh nhờ hoạt động đầu tư công đối với việc xây dựng các công trình giao thông trọng điểm; xây dựng các khu công nghiệp và các khu đô thị như: khu đô thị Ecopark, khu đô thị sinh thái Dream City và khu đô thị Đại An có quy mô đầu tư xây dựng lớn trong thời gian qua. Ước tính năm 2024, tăng trưởng ngành xây dựng đạt 18,3%, đóng góp 1,38 điểm phần trăm vào tăng trưởng kinh tế chung toàn tỉnh. Khu vực dịch vụ sau 2 năm 2022, 2023 có mức tăng trưởng ấn tượng, trong đó nổi bật là ngành kinh doanh bất động sản với dự án của Vinhomes cho doanh thu cao thì bước sang năm 2024, khi mà dự án bất động sản không còn là yếu tố mới, cùng với đó doanh thu ghi nhận đạt mức thấp (ước giảm 9,53% so với năm 2023) nên tăng trưởng khu vực dịch vụ đạt thấp, ước tăng 2,96% và chỉ đóng góp 0,82 điểm phần trăm vào tăng trưởng chung của toàn tỉnh. 2. Quy mô, cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế Quy mô nền kinh tế năm 2024 của tỉnh đạt 159.844 tỷ đồng, là một trong những tỉnh có mật độ kinh tế cao của vùng và của cả nước, đạt 172 tỷ đồng/km2; GRDP bình quân đầu người đạt 121,27 triệu đồng, tăng 8,81 triệu đồng so với năm 2023. Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng gia tăng tỷ trọng ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ, cụ thể năm 2024: Công nghiệp, xây dựng chiếm 62,65%; thương mại, dịch vụ chiếm 24,85%; nông, lâm nghiệp, thủy sản chiếm 6,72%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 5,78% (năm 2021: Công nghiệp, xây dựng 63,40%; thương mại, dịch vụ 21,57%, nông, lâm nghiệp, thủy sản 8,61%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 6,42%). Bên cạnh việc dịch chuyển cơ cấu chung của cả nền kinh tế, trong nội bộ từng khu vực, từng ngành kinh tế cũng có những chuyển dịch mạnh mẽ. Cụ thể: Đối với ngành nông nghiệp, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả. Tiếp tục thực hiện chuyển đổi diện tích cây trồng có hiệu quả kinh tế thấp sang trồng cây lâu năm, cây ăn quả kết hợp nuôi trồng thủy sản cho hiệu quả kinh tế cao bước đầu đã hình thành nhiều vùng sản xuất chuyên canh; các dự án sản xuất nông nghiệp hàng hóa tiếp tục được triển khai tích cực, hiệu quả, từng bước hình thành các vùng sản xuất hàng hóa tập trung. Đối với ngành công nghiệp, cơ cấu lại ngành công nghiệp theo hướng tập trung phát triển các ngành công nghiệp mũi nhọn: cơ khí chế tạo (ưu tiên phát triển các sản phẩm: ô tô, máy móc thiết bị phục vụ các ngành kinh tế); điện tử tin học (ưu tiên phát triển các sản phẩm: thiết bị điện tử, điện lạnh, các sản phẩm công nghiệp công nghệ cao); công nghiệp hỗ trợ phục vụ các ngành công nghiệp mũi nhọn nhằm nâng cao giá trị sản xuất và tham gia vào mạng lưới sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu. Đối với các ngành dịch vụ, với sự gia tăng nhanh chóng của số lượng các cơ sở kinh doanh thương mại, dịch vụ, các hình thái kinh doanh thương mại, dịch vụ hiện đại cũng ngày càng phát triển.   3. Nông nghiệp và thủy sản 3.1. Nông nghiệp a) Trồng trọt Sản xuất cây hằng năm: năm 2024, tổng diện tích gieo trồng cây hằng năm toàn tỉnh đạt 67.606 ha, giảm 1,73%, tương ứng giảm 1.192 ha so với năm 2023. Trong đó: lúa 48.976 ha, giảm 2,63% (giảm 1.325 ha); ngô 3.099 ha, giảm 0,96% (giảm 30 ha); cây lấy củ có chất bột 497 ha, giảm 0,19% (giảm 1 ha); cây có hạt chứa dầu 1.039 ha, giảm 1,62% (giảm 17 ha); rau, đậu các loại và hoa 12.039 ha, tăng 0,72% (tăng 86 ha); cây hằng năm khác 1.956 ha, tăng 5,09% (tăng 95 ha). Diện tích gieo trồng cây hằng năm vẫn có xu hướng giảm, tuy nhiên mức độ giảm đã thấp hơn so với những năm trước và giảm chủ yếu vẫn là diện tích gieo trồng lúa. Ước tính năng suất thu hoạch một số cây trồng chính như sau: lúa 58,87 tạ/ha, giảm 6,53% so với cùng kỳ (giảm 4,11 tạ/ha); ngô 59,13 tạ/ha, tăng 1,14% (tăng 0,67 tạ/ha); khoai lang 156,9 tạ/ha, giảm 0,02% (giảm 0,03 tạ/ha); lạc 35,06 tạ/ha, giảm 1,62% (giảm 0,58 tạ/ha); đậu tương 19,32 tạ/ha, giảm 6,43% (giảm 1,33 tạ/ha); rau các loại 246,48 tạ/ha, tăng 0,63% (tăng 1,55 tạ/ha). Ước tính sản lượng thu hoạch: lúa 260.390 tấn, giảm 17,81% (giảm 56.429 tấn); ngô 16.432 tấn, giảm 10,20% (giảm 1.867 tấn); đậu tương ước đạt 950 tấn, giảm 5,60% (giảm 56 tấn); lạc 1.754 tấn, giảm 12,47% (giảm 250 tấn); rau các loại 248.597 tấn, giảm 3,23% (giảm 8.288 tấn). Sản xuất vụ đông 2024 - 2025: Theo báo cáo tiến độ sản xuất của ngành chuyên môn, đến ngày 30/12/2024, toàn tỉnh gieo trồng được 6.723 ha rau màu vụ đông, đạt 109,32% kế hoạch, trong đó: khoai tây 96 ha; ngô 1.120 ha; lạc, đậu tương 115 ha; bầu, bí các loại 718 ha; dược liệu 120 ha; hoa cây cảnh 943 ha; rau các loại 3.519 ha. Diện tích thu hoạch rau màu vụ đông đạt 3.868 ha, trong đó: bầu, bí các loại 611 ha; ngô 560 ha; dược liệu 37 ha; hoa cây cảnh 433 ha; rau các loại 2.227 ha.   Sản xuất cây lâu năm: Sơ bộ năm 2024, tổng diện tích hiện có các loại cây lâu năm toàn tỉnh đạt 15.866 ha, giảm 0,23%, tương ứng giảm 37 ha so với năm 2023. Trong tổng diện tích hiện có các loại cây lâu năm thì diện tích cây ăn quả là chủ yếu - chiếm 93,10%. Do ảnh hưởng của cơn bão số 3 (bão Yagi) và mưa, lũ sau bão gây ngập úng đã làm gẫy đổ, thối, rụng quả một số cây trọng điểm của tỉnh như: chuối, cam, bưởi, đu đủ, táo,... nên năng suất và sản lượng một số cây trồng chính của tỉnh đã giảm sâu so với năm 2023. Diện tích, năng suất, sản lượng một số cây trồng chính như sau: Cây chuối: Diện tích trồng chuối 2.597 ha, giảm 0,55%, tương ứng giảm 14 ha. Trong đó, diện tích trồng mới cây chuối đạt 610 ha, tăng cao so với cùng kỳ do sau ảnh hưởng của bão số 3, cây chuối bị gẫy đổ, ngập nước nhiều ngày, nhà nông đã chặt bỏ các diện tích chuối bị hỏng và trồng mới thay thế. Diện tích cho sản phẩm giảm 14,23% do ảnh hưởng của cơn bão số 3, đặc biệt giảm mạnh diện tích chuối tiêu cho thu hoạch vào dịp cuối năm 2024. Năng suất chuối đạt 269,97 tạ/ha, giảm 6,41%, tương ứng giảm 18,50 tạ/ha; sản lượng chuối đạt 58.182 tấn, giảm 19,73% (giảm 14.302 tấn). Cây nhãn: Diện tích trồng nhãn 4.929 ha, tăng 0,45%, tương ứng tăng 22 ha; năng suất nhãn sơ bộ đạt 89,50 tạ/ha, giảm 2,59% (giảm 2,38 tạ/ha). Nguyên nhân năng suất nhãn trong thời gian cây nhãn ra hoa, chuẩn bị đậu quả thì gặp thời tiết mưa axít nên tỷ lệ đậu quả thấp hơn so với cùng kỳ năm trước. Thời điểm xảy ra cơn bão số 3 vào nửa đầu tháng 9, các trà nhãn chính trên địa bàn tỉnh cơ bản thu hoạch xong, chỉ còn một số vùng nhãn muộn trên địa bàn huyện Khoái Châu bị ảnh hưởng, vì vậy sản lượng nhãn năm 2024 giảm nhẹ so với cùng kỳ năm 2023, sơ bộ đạt 38.734 tấn, giảm 2,85% (giảm 1.137 tấn). Cây vải: Diện tích sơ bộ 1.376 ha, tăng 3,87% (tăng 52 ha), được trồng tập trung chủ yếu ở huyện Phù Cừ (chiếm 87% diện tích trồng vải toàn tỉnh); năng suất vải đạt 174,20 tạ/ha, giảm 0,74% (giảm 1,30 tạ/ha); sản lượng vải 19.578 tấn, tăng 13,99% (tăng 2.402 tấn). Cây cam: Diện tích sơ bộ 1.725 ha, giảm 6,26% (giảm 115 ha); năng suất cây cam đạt 185,02 tạ/ha, giảm 7,14% (giảm 14,22 tạ/ha); sản lượng cam đạt 28.725 tấn, giảm 12,85% (giảm 4.235 tấn). Cây bưởi: Diện tích sơ bộ 2.121 ha, giảm 0,50% (giảm 11 ha); năng suất bưởi đạt 163,99 tạ/ha, giảm 12,44% (giảm 23,29 tạ/ha); sản lượng bưởi 29.290 tấn, giảm 10,82% (giảm 3.555 tấn). b) Chăn nuôi Năm 2024 tình hình sản xuất chăn nuôi trên địa bản tỉnh Hưng Yên cơ bản ổn định và phát triển. Công tác phòng chống dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm sau mưa bão được thực hiện tốt. Triển khai cung ứng đầy đủ các loại vắc xin tiêm phòng 2 vụ xuân - hè, thu - đông bảo đảm số lượng, chất lượng, tiêm phòng đúng yêu cầu kỹ thuật. Ước tính tại thời điểm 01/12/2024, số lượng đàn gia súc, gia cầm của tỉnh như sau: đàn trâu 4.718 con, giảm 2,82% (giảm 137 con); đàn bò 30.746 con, tăng 1,29% (tăng 392 con); đàn lợn 517.796 con, tăng 0,16% (tăng 812 con); đàn gia cầm 9.084 nghìn con, giảm 3,33% (trong đó: gà 6.394 nghìn con, giảm 4,89%). Ước tính sản lượng thịt hơi xuất chuồng trong năm 2024 như sau: thịt trâu 520 tấn, tăng 5,91% so với cùng kỳ năm trước; thịt bò 4.580 tấn, tăng 5,09%; thịt lợn 112.625 tấn, tăng 6,71%; thịt gia cầm 45.245 tấn, tăng 4,16% (trong đó: thịt gà 34.435 tấn, tăng 4,51%). 3.2. Thuỷ sản Diện tích nuôi trồng thủy sản toàn tỉnh năm 2024 ước tính đạt 4.856 ha[1], giảm 5,04% (giảm 258 ha) so với năm 2023. Diện tích nuôi trồng thuỷ sản năm nay giảm một phần do ảnh hưởng cơn bão số 3 (bão Yagi) khiến các xã ven đê của thành phố Hưng Yên bị mất trắng diện tích. Ngoài ra, các huyện Văn Lâm, Văn Giang, Yên Mỹ, thị xã Mỹ Hào có diện tích giảm nhiều do một số huyện thu hồi đất để quy hoạch các dự án đô thị và đường vành đai 4, đường 382B và mở rộng đường 379. Ước tính sản lượng thủy sản nuôi trồng năm 2024 đạt 51.283 tấn, giảm 2,13% (giảm 1.114 tấn). Trong đó: cá các loại 50.423 tấn, giảm 2,10% (giảm 1.083 tấn); tôm 335 tấn, tăng 8,81% (tăng 27 tấn); thủy sản khác 525 tấn, giảm 9,74% (giảm 57 tấn) so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng tôm tăng so với năm 2023 là do từ quý 4 năm 2023, huyện Phù Cừ có diện tích nuôi tôm thẻ chân trắng. Hoạt động khai thác thuỷ sản trong tỉnh vẫn được duy trì ở quy mô nhỏ lẻ hộ gia đình. Ước tính sản lượng thuỷ sản khai thác năm 2024 đạt 554 tấn, giảm 0,48% (giảm 3 tấn) so với năm trước. Trong đó: sản lượng cá 380 tấn, giảm 0,14% (giảm 0,5 tấn); tôm 70 tấn, tăng 0,58% (tăng 0,4 tấn); thủy sản khác 105 tấn, giảm 2,40% (giảm 2,6 tấn). Do đặc điểm của địa phương không có biển, tuy có những sông lớn là sông Hồng, sông Luộc nhưng nguồn lợi thuỷ sản không nhiều nên dự báo việc khai thác thuỷ sản sẽ giảm dần trong những năm tới. 4. Công nghiệp Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng Mười Hai tăng 3,53% so với tháng trước. Trong đó: công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 3,97%; sản xuất và phân phối điện tăng 0,38%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 5,11%. Một số sản phẩm công nghiệp trong tháng có khối lượng sản xuất tăng so với tháng trước như: mỳ, phở, miến, bún, cháo ăn liền tăng 18,32%; thức ăn cho gia súc tăng 4,89%; thức ăn cho gia cầm tăng 12,45%; nước ngọt (Cocacola, 7 Up,...) tăng 12,12%; thùng, hộp bằng bìa cứng (trừ bìa nhăn) tăng 1,94%; sơn và véc ni tan trong môi trường nước tăng 10,0%; gạch xây dựng bằng đất sét nung (trừ gốm, sứ) quy chuẩn 220x105x60mm tăng 9,12%; sắt, thép không hợp kim dạng thỏi đúc hoặc dạng thô khác tăng 4,21%; thép hợp kim khác dạng thỏi đúc hoặc dạng thô khác tăng 4,19%; thanh, que sắt, thép không hợp kim được cán nóng, dạng cuộn cuốn không đều tăng 5,01%; thanh, que thép không gỉ khác tăng 1,69%; thiết bị dùng cho dàn giáo, ván khuôn, vật chống hoặc cột trụ chống hầm lò bằng sắt, thép, nhôm tăng 8,05%; mạch điện tử tích hợp tăng 8,99%; đĩa dùng cho hệ thống đọc bằng laser chưa ghi (vd: CD, DVD,...) tăng 1,28%; phụ tùng khác của xe có động cơ tăng 8,39%;... Một số sản phẩm có khối lượng sản xuất giảm so với tháng trước như: nước khoáng không có ga giảm 2,12%; cửa sổ, cửa ra vào bằng gỗ giảm 1,03%; thùng, hộp bằng giấy nhăn và bìa nhăn giảm 0,13%; sản phẩm bằng plastic giảm 7,76%; bê tông trộn sẵn (bê tông tươi) giảm 4,53%; ống dẫn bằng sắt, thép không nối, dùng để dẫn dầu hoặc khí giảm 17,97%; ống và đường ống bằng sắt, thép không nối khác giảm 0,14%; động cơ đa năng một chiều/xoay chiều có công suất >37.5 W giảm 3,88%; dây cách điện đơn bằng đồng giảm 10,45%; dây cách điện đơn dạng cuộn khác giảm 5,68%;... So với cùng kỳ năm trước, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tháng Mười Hai tăng 10,94%. Trong đó: công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 9,70%; sản xuất, phân phối điện tăng 15,70%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 49,62%. Một số sản phẩm công nghiệp có khối lượng sản xuất tăng khá so với cùng kỳ năm trước như: nước khoáng không có ga tăng 30,93%; giày, dép khác chưa được phân vào đâu tăng 83,87%; cửa sổ, cửa ra vào bằng gỗ tăng 12,94%; thùng, hộp bằng bìa cứng (trừ bìa nhăn) tăng 54,42%; thùng, hộp bằng giấy nhăn và bìa nhăn tăng 16,09%; sơn và véc ni tan trong môi trường nước tăng 16,09%; sản phẩm bằng plastic tăng 8,80%; sản phẩm vệ sinh gắn cố định bằng gốm sứ tăng 81,91%; sắt, thép không hợp kim dạng thỏi đúc hoặc dạng thô khác tăng 4,21%; thép hợp kim khác dạng thỏi đúc hoặc dạng thô khác tăng 4,19%; thanh, que sắt, thép không hợp kim được cán nóng, dạng cuộn cuốn không đều tăng 5,01%; thanh, que thép không gỉ khác tăng 1,69%; góc, khuôn, hình bằng sắt, thép đã được hàn tăng 2,04%; thiết bị dùng cho dàn giáo, ván khuôn, vật chống hoặc cột trụ chống hầm lò bằng sắt, thép, nhôm tăng 12,69%; mạch in khác tăng 42,35%; đĩa dùng cho hệ thống đọc bằng laser chưa ghi (vd: CD, DVD,... ) tăng 31,56%; phụ tùng khác của xe có động cơ tăng 17,67%;... Bên cạnh đó, một số sản phẩm công nghiệp có khối lượng sản xuất giảm so với cùng kỳ năm trước như: thức ăn cho gia súc giảm 5,47%; rượu Vodka và rượu Cô nhắc giảm 27,52%; quần áo các loại giảm 0,65%; gỗ ốp, lát công nghiệp giảm 1,89%; gạch xây dựng bằng đất sét nung (trừ gốm, sứ) quy chuẩn 220x105x60mm giảm 15,78%; bê tông trộn sẵn (bê tông tươi) giảm 9,02%; mạch điện tử tích hợp giảm 60,01%; động cơ đa năng một chiều/xoay chiều có công suất >37.5 W giảm 3,05%; dây cách điện đơn bằng đồng giảm 39,94%;... Năm 2024, chỉ số sản xuất ngành công nghiệp tỉnh Hưng Yên ước tính tăng 10,48% so với năm 2023. Trong đó: công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 9,85%; sản xuất, phân phối điện, khí đốt, nước nóng và hơi nước tăng 10,60%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải tăng 31,27%. Nhiều sản phẩm có khối lượng sản xuất tăng khá so với năm 2023 như: mỳ, phở, miến, bún, cháo ăn liền tăng 2,88%; nước khoáng không có ga tăng 7,22%; quần áo các loại tăng 8,54%; giày, dép khác chưa được phân vào đâu tăng 17,95%; gỗ ốp, lát công nghiệp tăng 2,45%; thùng, hộp bằng bìa cứng (trừ bìa nhăn) tăng 31,10%; thùng, hộp bằng giấy nhăn và bìa nhăn tăng 2,85%; sơn và véc ni tan trong môi trường nước tăng 88,74%; sắt, thép không hợp kim dạng thỏi đúc hoặc dạng thô khác tăng 5,96%; thép hợp kim khác dạng thỏi đúc hoặc dạng thô khác tăng 4,96%; thanh, que thép không gỉ khác tăng 21,32%; thiết bị dùng cho dàn giáo, ván khuôn, vật chống hoặc cột trụ chống hầm lò bằng sắt, thép, nhôm tăng 18,49%; sản phẩm vệ sinh gắn cố định bằng gốm sứ tăng 24,63%; bê tông trộn sẵn (bê tông tươi) tăng 11,31%; mạch in khác tăng 56,24%; đĩa dùng cho hệ thống đọc bằng laser chưa ghi (vd: CD, DVD,...) tăng 83,84%; dây cách điện đơn dạng cuộn khác tăng 6,83%; phụ tùng khác của xe có động cơ tăng 6,31%;... Một số sản phẩm có khối lượng sản xuất giảm như: thức ăn cho gia súc giảm 10,43%; thức ăn cho gia cầm giảm 8,0%; rượu Vodka và rượu Cô nhắc giảm 20,38%; cửa sổ, cửa ra vào bằng gỗ giảm 17,19%; sản phẩm bằng plastic giảm 4,72%; gạch xây dựng bằng đất sét nung (trừ gốm, sứ) quy chuẩn 220x105x60mm giảm 29,69%; thanh, que sắt, thép không hợp kim được cán nóng, dạng cuộn cuốn không đều giảm 12,58%; thanh, que thép không gỉ, mới được gia công tạo hình nguội hoặc gia công kết nguội giảm 7,42%; ống dẫn bằng sắt, thép không nối, dùng để dẫn dầu hoặc khí giảm 24,15%; mạch điện tử tích hợp giảm 42,72%; dây cách điện đơn bằng đồng giảm 27,77%;... 5. Hoạt động đầu tư và phát triển doanh nghiệp a) Về thực hiện vốn đầu tư Tổng vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội trong năm 2024 toàn tỉnh ước đạt 75.200 tỷ đồng, tăng 10,03% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: vốn đầu tư khu vực nhà nước 17.197 tỷ đồng, tăng 9,55%; vốn đầu tư khu vực ngoài nhà nước 45.726 tỷ đồng, giảm 0,78%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 12.277 tỷ đồng, tăng 87,01%. Phân theo khoản mục đầu tư, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng vốn đầu tư thực hiện của tỉnh là vốn dành cho xây dựng cơ bản. Năm 2024, tổng vốn đầu tư sử dụng cho xây dựng cơ bản ước đạt 63.105 tỷ đồng, tăng 14,21% so với cùng kỳ năm trước và chiếm 83,91% trong tổng số vốn; vốn đầu tư mua sắm tài sản cố định dùng cho sản xuất không qua xây dựng cơ bản 8.277 tỷ đồng, giảm 12,68%; vốn đầu tư sửa chữa lớn và nâng cấp sản cố định đạt 2.623 tỷ đồng, giảm 13,39%; vốn đầu tư bổ sung vốn lưu động 1.095 tỷ đồng, tăng 101,40%; vốn đầu tư khác 100 tỷ đồng, tăng 129,27%. Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý tháng Mười Hai ước đạt 2.256 tỷ đồng, tăng 17,89% so với cùng kỳ năm 2023. Trong đó: vốn ngân sách cấp tỉnh 1.291 tỷ đồng, tăng 22,28%; vốn ngân sách cấp huyện 700 tỷ đồng, tăng 159,29%; vốn ngân sách cấp xã 266 tỷ đồng, giảm 54,80%. Cả năm 2024, vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý ước đạt 16.498 tỷ đồng, tăng 8,28%, tương ứng tăng 1.262 tỷ đồng so với cùng kỳ năm trước và đạt 83,11% so kế hoạch năm. Trong đó, vốn ngân sách cấp tỉnh đạt 9.030 tỷ đồng, tăng 9,33%; vốn ngân sách cấp huyện 4.192 tỷ đồng, tăng 44,17%; vốn ngân sách cấp xã 3.276 tỷ đồng, giảm 19,49%. b) Phát triển doanh nghiệp Tính từ ngày 22/11/2024 đến ngày 21/12/2024, số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới đạt 123 doanh nghiệp, với vốn đầu tư đăng ký 3.325 tỷ đồng. Các doanh nghiệp thành lập mới hoạt động trong lĩnh vực: công nghiệp chế biến, chế tạo 25 doanh nghiệp, vốn đăng ký 2.082 tỷ đồng; xây dựng 7 doanh nghiệp, vốn đăng ký 34 tỷ đồng; bán buôn, bán lẻ, sửa chữa ô tô, xe máy 51 doanh nghiệp, vốn đăng ký 214 tỷ đồng; kinh doanh bất động sản 6 doanh nghiệp, vốn đăng ký 736 tỷ đồng; hoạt động chuyên môn, khoa học và công nghệ 7 doanh nghiệp, vốn đăng ký 35 tỷ đồng;... Lũy kế từ 22/12/2023 đến ngày 21/12/2024, toàn tỉnh có 2.070 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, vốn đầu tư đăng ký đạt 37.679 tỷ đồng. Trong đó: ngành bán buôn; bán lẻ; sửa chữa ô tô, xe máy có số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới nhiều nhất, với 799 doanh nghiệp, vốn đăng ký đạt 3.859 tỷ đồng (chiếm 10,24% tổng vốn đăng ký); công nghiệp chế biến, chế tạo 424 doanh nghiệp, vốn đăng ký đạt 8.189 tỷ đồng (chiếm 21,73%); xây dựng 183 doanh nghiệp, vốn đăng ký 1.548 tỷ đồng (chiếm 4,11%); kinh doanh bất động sản 113 doanh nghiệp, vốn đăng ký 20.957 tỷ đồng (chiếm 55,62%);... Số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động trong tháng Mười Hai (tính từ ngày 22/11/2024 đến ngày 21/12/2024) là 19 doanh nghiệp. Lũy kế từ 22/12/2023 đến ngày 21/12/2024, số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động sau thời gian tạm ngừng là 346 doanh nghiệp. Cũng từ ngày 22/11/2024 đến ngày 21/12/2024, số doanh nghiệp giải thể là 21 doanh nghiệp, số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh là 36 doanh nghiệp. Lũy kế từ 22/12/2023 đến ngày 21/12/2024, có 224 doanh nghiệp giải thể và 726 doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh. Trong đó: ngành công nghiệp chế biến, chế tạo có 64 doanh nghiệp giải thể và 182 doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động, lần lượt chiếm 28,57% tổng số doanh nghiệp giải thể và chiếm 25,07% tổng số doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động; ngành bán buôn, bán lẻ có 76 doanh nghiệp giải thể và 257 doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động, chiếm 33,93% và 35,40%; kinh doanh bất động sản có 12 doanh nghiệp giải thể và 28 doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh, chiếm 5,36% và 3,86%; hoạt động hành chính và dịch vụ hỗ trợ có 11 doanh nghiệp giải thể và 47 doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động, chiếm 4,91% và 6,47%;... c) Hoạt động đầu tư nước ngoài Tính đến 30/12/2024, toàn tỉnh có 613 dự án có vốn đầu tư nước ngoài đăng ký hoạt động, với tổng số vốn đăng ký là 8.491,82 triệu USD, trong đó, từ đầu năm đến nay có 68 dự án đăng ký mới với số vốn đăng ký là 1.374,69 triệu USD. Các quốc gia có số dự án, vốn đầu tư chủ yếu là: Thứ nhất là Nhật Bản có 178 dự án, vốn đăng ký là 3.886,23 triệu USD, chiếm 45,76% tổng vốn đăng ký; thứ hai là Hàn Quốc có 159 dự án, vốn đăng ký 1.448,17 triệu USD, chiếm 17,05% tổng vốn đăng ký; thứ ba là Trung Quốc có 173 dự án, vốn đăng ký 1.313,31 triệu USD, chiếm 15,47% tổng số vốn đăng ký. 6. Thương mại, dịch vụ Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tháng Mười Hai ước đạt 13.442 tỷ đồng, tăng 2,85% so với tháng trước và tăng 17,0% so với tháng cùng kỳ năm 2023. Phân theo ngành kinh tế: thương nghiệp 2.996 tỷ đồng, tăng 2,90% so với tháng trước và tăng 7,61% so với cùng kỳ năm trước; dịch vụ lưu trú, ăn uống 296 tỷ đồng, tăng 7,23% so với tháng trước và tăng 17,06% so với cùng kỳ năm trước; dịch vụ lữ hành 3 tỷ đồng, tăng 2,50% so với tháng trước và giảm 16,57% so với cùng kỳ năm trước; dịch vụ khác 10.147 tỷ đồng, tăng 2,71% so với tháng trước và tăng 20,11% so cùng kỳ năm trước. Ước tính năm 2024, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ đạt 129.305 tỷ đồng, giảm 4,46% so với năm 2023. Xét theo ngành hoạt động, doanh thu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ năm 2024 như sau: Doanh thu bán lẻ hàng hoá ước đạt 32.966 tỷ đồng, tăng 6,16% so với cùng kỳ năm trước. Doanh thu bán lẻ hàng hóa năm 2024 tăng chủ yếu ở một số nhóm hàng chính sau: lương thực, thực phẩm tăng 0,36%; đồ dùng dụng cụ, trang thiết bị gia đình tăng 4,97%; gỗ và vật liệu xây dựng tăng 3,97%; xăng, dầu các loại tăng 32,26%; hàng hóa khác tăng 4,07%; ô tô con (dưới 9 chỗ ngồi) tăng 25,45%; phương tiện đi lại, trừ ô tô con tăng 26,10%; nhiên liệu khác (trừ xăng dầu) tăng 9,11%; đá quý, kim loại quý và sản phẩm tăng 19,36%; sửa chữa xe có động cơ, mô tô, xe máy tăng 1,05%. Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống ước đạt 3.008 tỷ đồng, tăng 3,14% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: dịch vụ lưu trú 138 tỷ đồng, tăng 16,10%; dịch vụ ăn uống 2.870 tỷ đồng, tăng 2,59%. Doanh thu dịch vụ du lịch và lữ hành ước đạt 61 tỷ đồng, tăng 38,97% so với cùng kỳ năm trước. Doanh thu ngành dịch vụ khác ước đạt 93.270 tỷ đồng, giảm 7,95% so với cùng kỳ năm trước. Chi tiết một số ngành như sau: dịch vụ kinh doanh bất động sản 87.378 tỷ đồng, giảm 9,0%; dịch vụ hành chính và dịch vụ hỗ trợ 2.311 tỷ đồng, tăng 2,07%; dịch vụ giáo dục và đào tạo ước đạt 1.477 tỷ đồng, tăng 27,85%; dịch vụ y tế 676 tỷ đồng, tăng 11,33%; nghệ thuật, vui chơi và giải trí 186 tỷ đồng, tăng 37,02%; dịch vụ khác 1.242 tỷ đồng, tăng 8,32%. 7. Hoạt động vận tải a) Hoạt động vận tải hành khách Vận tải hành khách tháng Mười Hai ước đạt 1.730 nghìn lượt người vận chuyển và 90.512 nghìn lượt người luân chuyển, lần lượt tăng 6,01% về lượt người vận chuyển và tăng 5,47% về lượt người luân chuyển so với cùng kỳ năm 2023; doanh thu vận tải hành khách ước đạt 85 tỷ đồng, tăng 6,09%. Tính chung cả năm 2024, vận tải hành khách ước đạt 18.922 nghìn lượt người vận chuyển và 1.038.218 nghìn lượt người luân chuyển, lần lượt tăng 2,03% về lượt người vận chuyển và tăng 3,91% về lượt người luân chuyển so với cùng kỳ năm 2023; doanh thu vận tải hành khách ước đạt 969 tỷ đồng, tăng 2,54%. b) Hoạt động vận tải hàng hóa Vận tải hàng hoá tháng Mười Hai ước đạt 3.535 nghìn tấn vận chuyển và 165.631 nghìn tấn luân chuyển, lần lượt tăng 7,40% về tấn hàng hóa vận chuyển và tăng 7,98% về tấn hàng hóa luân chuyển so với cùng kỳ năm 2023; doanh thu vận tải hàng hóa ước đạt 505 tỷ đồng, tăng 11,54%. Tính chung cả năm 2024, vận tải hàng hóa ước đạt 37.222 nghìn tấn vận chuyển và 1.838.022 nghìn tấn luân chuyển, lần lượt tăng 5,45% về tấn hàng hóa vận chuyển và tăng 9,56% về tấn hàng hóa luân chuyển so với năm 2023; doanh thu vận tải hàng hóa ước đạt 5.044 tỷ đồng, tăng 9,10%. 8. Hoạt động tài chính, ngân hàng a) Thu ngân sách nhà nước Ước tính cả năm 2024, thu ngân sách nhà nước đạt 40.477 tỷ đồng, tăng 24,75% so với năm 2023 và đạt 23,32% dự doán HĐND tỉnh giao. Trong đó: thu nội địa 35.811 tỷ đồng, tăng 24,57% so với năm 2023 và đạt 122,97% dự toán; thu từ hoạt động xuất nhập khẩu 4.666 tỷ đồng, tăng 26,16% so với năm 2023 và đạt 126,11% dự toán. Một số khoản thu nội địa như sau: thu từ DNNN 216 tỷ đồng, giảm 2,75% so với năm 2023; thu từ khu vực có vốn đầu tư nước ngoài 3.325 tỷ đồng, tăng 19,41%; thu từ khu vực ngoài quốc doanh 14.889 tỷ đồng, giảm 2,62%; thu lệ phí trước bạ 825 tỷ đồng, tăng 84,48%; thuế thu nhập cá nhân 1.923 tỷ đồng, tăng 34,77%; các khoản thu về đất 13.286 tỷ đồng, tăng 91,75%. b) Chi ngân sách nhà nước địa phương Ước tính cả năm 2024, chi ngân sách nhà nước địa phương đạt 29.114 tỷ đồng, tăng 38,30% so với cùng kỳ năm 2023. Trong đó: chi đầu tư phát triển 20.107 tỷ đồng, tăng 54,06%; chi thường xuyên 9.007 tỷ đồng, tăng 12,59%. Một số lĩnh vực chi thường xuyên như sau: Chi sự nghiệp kinh tế 602 tỷ đồng, giảm 12,83%; chi giáo dục, đào tạo 3.527 tỷ đồng, tăng 18,27%; chi sự nghiệp y tế 1.040 tỷ đồng, tăng 9,99%; chi sự nghiệp văn hóa, thể dục thể thao 183 tỷ đồng, tăng 10,13%; chi đảm bảo xã hội 722 tỷ đồng, tăng 17,41%; chi quản lý hành chính 2.150 tỷ đồng, tăng 13,84%. c) Hoạt động ngân hàng Ước tính đến 31/12/2024, tổng nguồn vốn của các tổ chức tín dụng trên địa bàn tỉnh đạt 153.205 tỷ đồng, tăng 13.864 tỷ đồng, tương ứng tăng 9,95% so với thời điểm 31/12/2023. Trong đó: Nguồn vốn huy động trong dân cư và các tổ chức kinh tế đạt 144.206 tỷ đồng, tăng 13.865 tỷ đồng, tương ứng tăng 10,48% và chiếm 94,13% tổng nguồn vốn. Tổng dư nợ đối với nền kinh tế đạt 116.278 tỷ đồng, tăng 18.244 tỷ đồng, tương ứng tăng 18,61% so với thời điểm 31/12/2023. Trong đó: dư nợ cho vay ngắn hạn 85.935 tỷ đồng, tăng 20,80%; dư nợ cho vay trung và dài hạn 30.343 tỷ đồng, tăng 12,82%. Dư nợ cho vay bằng nội tệ 112.415 tỷ đồng, tăng 18,97%; dư nợ cho vay bằng ngoại tệ 3.863 tỷ đồng, tăng 8,97%. Về chất lượng tín dụng: nợ xấu (nhóm 3,4,5) là 1.240 tỷ đồng (chiếm 1,07% tổng dư nợ), tăng 1,57% so với thời điểm 31/12/2023. 9. Chỉ số giá a) Chỉ số giá tiêu dùng Chỉ số giá tiêu dùng tháng Mười Hai tăng 0,09% so với tháng trước. Trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ chính, có 9 nhóm có chỉ số tăng so với tháng trước là: đồ uống và thuốc lá tăng 0,18%; may mặc, mũ nón, giày dép tăng 1,45%; nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 0,93%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,28%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,02%; giao thông tăng 0,65%; bưu chính, viễn thông tăng 0,18%; giáo dục tăng 0,06%; hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,85%. Có 2 nhóm hàng có chỉ số giảm là: hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 0,90%; văn hoá, giải trí và du lịch giảm 0,11%. So với cùng kỳ năm trước, chỉ số giá tiêu dùng tháng 12/2024 tăng 3,60%. Trong 11 nhóm hàng tiêu dùng chính, 8 nhóm có chỉ số giá tăng là: hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 4,93%; đồ uống và thuốc lá tăng 1,04%; may mặc, mũ nón và giày dép tăng 4,57%; nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 9,88%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,82%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,18%; văn hoá, giải trí và du lịch tăng 1,98%; hàng hoá và dịch vụ khác tăng 7,60%. Ba nhóm hàng hóa, dịch vụ có chỉ số giá giảm là: giao thông giảm 2,19%; bưu chính viễn thông giảm 0,24%; giáo dục giảm 1,33%;... Bình quân cả năm 2024, chỉ số giá tiêu dùng tăng 6,33% so với năm 2023. Trong đó, có 9/11 nhóm hàng hóa, dịch vụ có chỉ số giá tăng là: hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 6,12%; đồ uống và thuốc lá tăng 2,40%; may mặc, mũ nón và giày dép tăng 5,72%; nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 14,66%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 1,43%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 12,39%; dịch vụ giáo dục tăng 2,67%; văn hoá, giải trí và du lịch tăng 2,65%; hàng hoá và dịch vụ khác tăng 6,65%. Có 2 nhóm hàng hóa, dịch vụ có chỉ số giá giảm là giao thông giảm 2,06%; bưu chính viễn thông giảm 1,95%. b) Chỉ số giá vàng và đô la Mỹ Tháng 12/2024, chỉ số giá vàng trên địa bàn tỉnh giảm 1,40% so với tháng trước. Mức giảm này chủ yếu do tác động từ diễn biến giá vàng trên thị trường thế giới. Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu có dấu hiệu ổn định hơn, các nhà đầu tư chuyển hướng sang các kênh đầu tư khác như chứng khoán và bất động sản, làm giảm nhu cầu đối với vàng - một tài sản trú ẩn an toàn. Bên cạnh đó, tỷ giá USD tăng trên thị trường quốc tế cũng góp phần gây áp lực giảm giá vàng, do vàng được định giá bằng USD trở nên đắt đỏ hơn đối với các nhà đầu tư nắm giữ các loại tiền tệ khác. Tại thị trường trong nước, giá vàng giảm còn chịu ảnh hưởng từ sự cân đối cung cầu, khi nhu cầu mua vàng tích trữ vào cuối năm không tăng mạnh như kỳ vọng. Bình quân tháng 12/2024, giá vàng xấp xỉ 8.310.000 VNĐ/chỉ. Sau thời gian dài giảm giá, trong tháng qua đã ghi nhận sự tăng trưởng trở lại của đồng USD nhờ vào nhiều yếu tố hỗ trợ từ nền kinh tế Mỹ và sự ổn định của chính sách tiền tệ từ Cục dự trữ Liên bang Mỹ. Tháng 12/2024, chỉ số giá đô la Mỹ tăng nhẹ - tăng 0,03% so với tháng trước, tỷ giá chuyển đổi 1 USD xấp xỉ 25.485 VNĐ. 10. Hoạt động xã hội a) Dân số, lao động, đời sống dân cư và an sinh xã hội Năm 2024, dân số trung bình trên địa bàn tỉnh ước đạt 1.318 nghìn người, tăng 1,31% so với năm 2023, trong đó lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên 698 nghìn người, tăng 0,90%; lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc hằng năm 688 nghìn người, tăng 1,13%; tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn 2022 - 2025 là 0,44%, giảm 0,42 điểm phần trăm so với năm 2023. Năm 2024, tỉnh đã tổ chức thăm, tặng quà 204.211 lượt người có công, gia đình liệt sĩ, người cao tuổi, người thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo và các đối tượng xã hội khác. Tổng kinh phí dành cho hoạt động thăm, tặng quà là trên 120 tỷ đồng. Cụ thể: dịp Tết Nguyên đán Giáp Thìn 2024, toàn tỉnh đã tổ chức thăm, tặng quà 78.485 lượt người có công, gia đình liệt sĩ với số tiền trên 58 tỷ đồng; thăm, chúc thọ, tặng quà 35.566 người cao tuổi với số tiền trên 12,3 tỷ đồng ; 24.720 lượt người thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo và các đối tượng xã hội khác với số tiền hơn 10,3 tỷ đồng. Kỷ niệm 77 năm Ngày Thương binh - Liệt sĩ (27/7/2947 - 27/7/2024), toàn tỉnh tổ chức thăm, tặng quà 65.440 lượt người có công, gia đình liệt sĩ với số tiền gần 40 tỷ đồng. Triển khai thực hiện hiệu quả các hoạt động bảo vệ, chăm sóc trẻ em, bảo đảm thực hiện tốt quyền trẻ em. Tỷ lệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt được trợ giúp với các hình thức đạt 94%; hỗ trợ phẫu thuật tim cho 03 trẻ em; tỷ lệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt trên tổng số trẻ em duy trì ở mức dưới 0,74%; 100% trẻ em dưới 6 tuổi được cấp thẻ bảo hiểm y tế. b) Hoạt động văn hoá, thể thao Năm 2024, toàn tỉnh đã tổ chức nhiều hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao, lễ hội bảo đảm an toàn, tạo không khí vui tươi, phấn khởi trong nhân dân, đặc biệt là tổ chức thành công các sự kiện quan trọng như: Liên hoan Ẩm thực tỉnh Hưng Yên lần I năm 2024; Tuần văn hóa, thể thao và du lịch tỉnh Hưng Yên năm 2024; Hội thảo khoa học quốc tế Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác.  Phong trào thể dục thể thao gắn với Cuộc vận động “Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại” ngày càng phát triển cả bề rộng và chiều sâu. Các hoạt động thể dục thể thao diễn ra phong phú, sôi nổi, thu hút đông đảo quần chúng nhân dân tham gia, phục vụ tốt nhiệm vụ chính trị và nâng cao sức khỏe của Nhân dân. Đoàn thể thao của tỉnh tham gia thi đấu 40 giải quốc gia, gồm: Muay, Karate, Pencak Silat, Wushu, Cử tạ, Boxing, Bóng chuyền nữ, Đua thuyền Rowing, võ Cổ truyền, Bóng đá nhi đồng, Cầu lông, Điền kinh, Bóng bàn, Taekwondo, đạt tổng số 142 huy chương các loại, gồm: 23 HCV, 35 HCB, 84 HCĐ. Một số VĐV có thành tích đặc biệt xuất sắc như VĐV Nguyễn Thị Thu Hiền giành HCV giải Vô địch thế giới môn Pencak Silat hạng trên 75 kg; VĐV Nguyễn Thị Vân Anh, môn Đua thuyền Rowing giành 01 HCV, 01 HCB giải Rowing U19, U23 Châu Á, 01 HCV, 01 HCB giải Rowing U19, U23 Đông Nam Á; VĐV Nguyễn Thị Thu Hiền giành 01 HCĐ giải Vô địch Muay Trẻ thế giới; VĐV Nguyễn Thành Long, giành 01 HCV, VĐV Nguyễn Hữu Hùng, giành 01 HCB giải Pencak Silat Đại hội Thể thao học sinh Đông Nam Á lần thứ 13 (Asean School Games 13); có 05 VĐV được tập trung đội tuyển trẻ, dự tuyển quốc gia của các môn Đua thuyền c) Giáo dục, đào tạo Đầu năm học 2024-2025, toàn tỉnh Hưng Yên có 193 trường mầm non (161 trường công lập và 32 trường tư thục), tăng 01 trường so với đầu năm học trước do thành lập mới các trường mầm non tư thục; 77 trường tiểu học, giảm 39 trường so với đầu năm học trước; 81 trường THCS, giảm 39 trường so với đầu năm học trước (nguyên nhân do tỉnh đang thực hiện sáp nhập các trường tiểu học và trung học cơ sở nên số lượng trường của hai cấp học này đang giảm dần so với năm học trước); 88 trường tiểu học và trung học cơ sở; 34 trường THPT (24 trường công lập và 10 trường ngoài công lập); 1 trường THCS và THPT; 5 trường tiểu học, THCS và THPT. Lớp học, học sinh: Tổng số có 10.244 nhóm, lớp học, tăng 269 nhóm, lớp học so với năm học trước. Trong đó: mầm non 3.373 nhóm, lớp; tiểu học 3.333 lớp, THCS 2.438 lớp và THPT 1.100 lớp. Đầu năm học 2024-2025, toàn tỉnh có tổng số có 327.133 học sinh, tăng 0,67% so với cùng kỳ năm học trước. Trong đó: mầm non có 67.534 cháu, tiểu học có 117.659 học sinh, THCS có 95.923 học sinh và THPT là 46.017 học sinh. Về đội ngũ giáo viên: Đầu năm học 2024-2025, tổng số giáo viên tại các khối trường mầm non và phổ thông là 15.242 giáo viên, tăng 2,73% so với cùng kỳ năm học 2023 - 2024. Trong tổng số giáo viên: Mầm non có 5.125 giáo viên, tiểu học có 4.421 giáo viên, THCS có 3.765 giáo viên, THPT có 1.931 giáo viên. Tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn trở lên đều đạt 100% ở tất cả các bậc học.  Về giáo dục thường xuyên: hiện có 1 Trung tâm giáo dục thường xuyên cấp tỉnh và 10 trung tâm cấp huyện, với 7.084 học viên và 217 giáo viên giảng dạy. d) Hoạt động y tế Tình hình một số bệnh truyền nhiễm + Bệnh tay chân miệng: Lũy kế từ đầu năm 2024 đến ngày 27/12/2024, toàn tỉnh ghi nhận 207 ca mắc tay chân miệng (giảm 117 ca so với cùng kỳ năm 2023), được sàng lọc tại bệnh viện khi đến khám và điều trị, không có trường hợp tử vong. + Sốt xuất huyết Dengue: lũy kế từ đầu năm 2024 đến ngày 27/12/2024, trên địa bàn tỉnh ghi nhận tổng số 331 ca, có 01 trường hợp tử vong tại Văn Giang, chưa ghi nhận ổ dịch SXH trên địa bàn tỉnh, các bệnh nhân mắc bệnh đều đã được điều tra, giám sát. + Bệnh sởi: Số ca mắc từ đầu năm đến ngày 27/12/2024 (có địa chỉ tại Hưng Yên) là 32 ca, chủ yếu là trẻ em, được phát hiện qua lâm sàng, trong đó có 12 ca được phát hiện trong tỉnh (BV Sản Nhi) và 20 ca phát hiện tại các bệnh viện tuyến trung ương đều được theo dõi, giám sát khi về địa bàn tỉnh. Các ca mắc đơn lẻ, không có trường hợp nặng hoặc tử vong, không ghi nhận ổ dịch trên địa bàn tỉnh. + Ho gà: lũy kế từ đầu năm đến ngày 20/12/2024, toàn tỉnh ghi nhận tổng số 22 ca mắc đều là trẻ nhỏ, trong đó phần lớn (90%) là các trẻ chưa đến lịch tiêm chủng hoặc chưa tiêm đủ mũi, số ca mắc rải rác, đơn lẻ tại các địa phương, chưa ghi nhận ổ dịch, không có ca tử vong. + Bệnh bạch hầu: Từ đầu năm 2024 đến nay không ghi nhận ca mắc/nghi mắc trên địa bàn tỉnh Hưng Yên. + Bệnh cúm mùa: Toàn tỉnh chưa ghi nhận ca bệnh nhiễm cúm A H5N1 và H7N9, lũy kế số ca mắc cúm mùa từ đầu năm 2024 đến ngày 27/12/2024 là 6.913 ca theo báo cáo của các địa phương trên phần mềm bệnh truyền nhiễm (TT54), các bệnh nhân được phát hiện tại các cơ sở y tế, không ghi nhận ca bệnh nặng hoặc tử vong. - Bệnh thuỷ đậu: toàn tỉnh ghi nhận 212 ca từ đầu năm đến ngày 27/12/2024. e) Bảo vệ môi trường và phòng chống cháy, nổ Năm 2024 (từ ngày 16/12/2023 đến ngày 15/12/2024), trên địa bàn tỉnh Hưng Yên đã phát hiện 89 vụ vi phạm môi trường, trong đó xử lý 28 vụ với số tiền xử phạt là 443 triệu đồng. So với năm 2023, số vụ vi phạm giảm 101 vụ, giảm 53,16% ; số vụ đã xử lý giảm 136 vụ, giảm 82,93%; số tiền xử phạt giảm 514 triệu, giảm 53,71%. Nguyên nhân xử phạt chủ yếu về vi phạm quản lý chất thải nguy hại, xả thải vượt quá tiêu chuẩn, quy chuẩn ra môi trường; tiếp nhận chất thải rắn không đúng quy định; khai thác cát trái phép, an toàn vệ sinh thực phẩm,... Trong năm 2024 (tính từ 15/12/2023 đến 14/12/2024), toàn tỉnh xảy ra 33 vụ cháy, không có vụ nổ, làm bị thương 2 người, không có người chết. So với năm 2023, số vụ cháy tăng 17 vụ (tăng 106,25%); hai năm qua đều không có người chết; số người bị thương bằng với năm 2023. f) An toàn giao thông Theo số liệu của Ban An toàn giao thông tỉnh Hưng Yên, từ ngày 15/11/2024 đến 14/12/2024, toàn tỉnh xảy ra 41 vụ tai nạn giao thông, đều là tai nạn đường bộ, làm chết 18 người, làm bị thương 25 người. So với tháng trước, số vụ tai nạn tăng 3 vụ, tăng 7,89%; số người chết giảm 6 người, giảm 25,0%; số người bị thương giảm 4 người, giảm 13,79%. Tính từ ngày 15/12/2023 đến hết ngày 14/12/2024, toàn tỉnh đã xảy ra 545 vụ tai nạn giao thông, làm chết 203 người, làm bị thương 465 người. So với cùng kỳ năm 2023, số vụ tai nạn giảm 55 vụ, giảm 9,17%; số người chết tăng 27 người, tăng 15,34%; số người bị thương tăng 46 người, tăng 10,98%./. Trên đây là báo cáo tình hình kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh Hưng Yên tháng Mười Hai và năm 2024./. [1] Diện tích chưa bao gồm nuôi lồng bè, bể bồn và ươm giống